PARIS, ngày 19.12.2011 (PTTPGQT) – Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kỳ IX tổ chức tại Chùa Điều Ngự, thành phố Westminster, tiểu bang California, Hoa Kỳ từ ngày 18 đến 20.11.2011. Phiên Khoáng đại thứ nhất của Đại hội mang chủ đề “Người Phật tử trước hiểm họa xâm lăng”. Có thể nói Khoáng đại này hết sức sôi nổi với phần hội luận mà hầu như các tham dự viên đại biểu 125 đơn vị Giáo hội đều đóng góp, phát biểu nói lên ưu tư chung của người Phật tử Việt Nam. Sự ưu tư thâm thiết và sôi nổi đóng góp ấy đã dẫn dắt Đại hội tràn đầy hứng khởi với 4 Khoáng đại tiếp sau đó.
Thuyết trình viên tại Khoáng đại 1 này là Cư sĩ Võ Văn Ái. Bài thuyết trình ứng khẩu trong vòng một giờ đồng hồ. Theo yêu cầu của số đông, chúng tôi chép lại từ băng thu bài thuyết trình ấy và gửi đến Cư sĩ xem trước để hoàn chỉnh. Sau đây là toàn văn bài thuyết trình xin gửi đến Bạn đọc vào thời điểm đang có nguy cơ xâm lấn từ Bắc phương.
Thuyết trình tại Đại hội GHPGVNTN kỳ 9 – Khoáng đại I
Võ Văn Ái
Thua quý vị Đại biểu,
Chủ nghĩa bá quyền Đại Hán với âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung quốc là chuyện từ nghìn năm. Mấy mươi năm trước ta từng nhập tâm với câu hát “Một nghìn năm nô lệ giặc Tàu / Một trăm năm nô lệ giặc Tây / Hai mươi năm nội chiến từng ngày…”. Quả thực vậy, 2000 năm lịch sử Việt là 2000 năm dồn lực chống ngoại xâm. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền dân tộc, người Phật tử Việt Nam tham dự rất sớm. Chẳng cần nhắc lại các minh chứng lịch sử dưới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần… Hãy nhìn vào cuộc kháng chiến Vệ quốc đầu tiên của Hai Bà Trưng nửa đầu thế kỷ thứ nhất Tây lịch, thì năm 37, Sư Bà Thiều Hoa đã mộ 500 quân đến ứng chiến với Hai Bà. Sau cuộc thất trận, nhiều nữ tướng rút về các chùa viện ẩn náu, như Bát Nàn phu nhân, nữ tướng Tiên La, v.v… Đã có các nữ tướng Phật tử, ắt phải có sự tham gia đông đảo của quần chúng Phật tử. Sư bà Thiều Hoa tu ở chùa Phúc Khánh, nay là chùa Hiền Quan, huyện Tam Thanh, tỉnh Phú Thọ. Ngày nay đến thăm chùa ta còn thấy ở đền thờ bà treo bức đại tự “Diệt Bạo Tướng Phật” và nhiều câu đối nhắc việc bà phò tá cuộc kháng chiến vệ quốc hai mươi thế kỷ trước.
Từ cuộc kháng chiến của hai Bà Trưng kéo dài cho đến những cuộc kháng chiến sau đó của Khu Liên, Chu Đạt, Lương Long, Khổng Chi và Trụ thiên tướng quân thế kỷ II Tl., anh em bà Triệu Thị Trinh năm 248 Tl., Phật tử Lý Nam Đế dựng lên Nhà nước độc lập Vạn Xuân năm 544 Tl…. Lúc nào cũng có sự tham gia của người Phật tử.
Đó là nói chuyện xưa. Ngày nay tình hình đổi khác, hình thái xâm lược cũng khác đi và phức tạp, phiền toái hơn. Ngày xưa đối ứng với hàng chục vạn quân Tàu xâm lấn, toàn dân nổi lên chống kháng. Gặp triều chính trung nghĩa, trên dưới một lòng nên chủ quyền không mất. Ngày nay Trung quốc không đưa quân đội đến xâm lấn. Thế giới phân chia từng khối, từng vùng ảnh hưởng, các quốc gia nhỏ khó một mình đảm trách lấy việc mình khi thiếu sự khôn khéo và đảm lược, thiếu sự hậu thuẫn của các thế lực cường quốc.
Bằng Quyền lực nhuyễn (Soft power) chứ không bằng súng đạn, Trung quốc xâm lược thế giới qua hình thức văn hóa. Chưa kể đến chủ trương di dân và kinh tế tài chính.
Quyền lực nhuyễn là khái niệm của nhà triết gia chính trị Hoa Kỳ Joseph S. Nye phát kiến năm 1990, là phương lược thu phục nhân tâm bằng trái tim, khi lý luận không thể lôi kéo, mà văn hóa được dùng như vũ khí. Đây cũng chính là sáchlược tâm công mà Nguyễn Trãi áp dụng thành công với quân xâm lược Minh đầu thế kỷ XV (1). Phát kiến từ Tây phương nhưng lại được nước Cộng sản khổng lồ Trung quốc áp dụng triệt để, hơn xa các nước Âu Mỹ.
Cuộc di dân của người Hán vào Tây Tạng đã làm cho một dân tộc hiền hòa Phật giáo bị bật gốc, mà Đức Dalai Lama gọi là cuộc diệt chủng văn hóa. Tại Việt Nam khởi sự với hàng chục nghìn công nhân Trung quốc đổ vào Tây nguyên khai thác bô-xít, rồi tràn khắp các tỉnh trên toàn quốc như Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Cà Mau. Những làng người Hoa dựng lên sinh sống như nơi quê hương họ. Công nhân chính thức và rất nhiều công nhân “chui”, vì người Hoa Không cần chiếu khán nhập cảnh. Hôm nay là thợ thuyền (như tung đội thứ Năm), ngày mai là hồng quân xâm lấn. Ai biết được ? Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ đã báo động sớm nhất về đại nạn bô xít Tây nguyên qua “Lời Kêu gọi Một Tháng Biểu tình Tại gia” (2) chống đề án Bô xít Tây nguyên từ ngày 29.3.2009.
Khai thác bô xít không những gây đại nạn sinh thái cho riêng vùng Tây nguyên của các sắc tộc ít người, mà chất độc thải từ bô xít theo mưa thấm vào lòng đất lan xuống miền nam Trung Việt, tới tận đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng nguy cơ an ninh quốc gia là điều đáng lo hơn cả. Vì Tây nguyên là yết hầu quân sự của ba nước Lào, Cam Bốt, Việt Nam. Ai nắm được yết hầu này có thể khống chế ba nước Đông Dương cũ.
Hiện nay khắp thế giới, công nhân Trung quốc đều có mặt như thế, nửa triệu công nhân ở Phi châu, 300 nghìn ở Nam Mỹ, 700 nghìn ở Liên bang Nga, v.v…
Hình thức văn hóa nói trên đây mà Bắc Kinh sử dụng là xuất cảng ông Khổng Tử.
Vì sách Đỏ và tư tưởng Mao không còn ăn khách ở Âu Mỹ như thời thập niên 60 thế kỷ trước. Nên Trung quốc xuất cảng ông Khổng Tử. Hiện có 322 Viện Khổng Tử thiết lập trong 96 nước trên năm châu. Tân Hoa xã phỏng vấn cựu Thủ tướng Pháp Jean-Pierre Rafarin cuối năm ngoái, ông này cho biết vợ ông đang theo học Hán ngữ từ 4 năm qua tại Viện Khổng Tử rộng bốn nghìn mét vuông ở Paris quận 8. Viện Khổng Tử ở Poitiers, vùng của ông cựu Thủ tướng Pháp, dựng lên với số tiền một triệu Euros, Bắc kinh góp thêm 792.000 Euros. Thế là tiền thuế người dân Pháp đóng cho quốc gia được đem dùng cho việc tuyên truyền của Bắc Kinh ! 14 Viện Khổng học tại Pháp thu hút 260.000 học viên.
Hiện đang có 250 đơn xin lập Viện Khổng Tử gửi về Bắc Kinh, người ta vui vẻ đón mời chiếc dây thòng lọng thắt vào cổ mình.
Giáo sư Sử học ở Đại học Oregon Hoa Kỳ, Glenn Anthony May báo động hiện trạng này qua bài viết “Quyền lực nhuyễn (Soft power) của Trung quốc tại các đại học Hoa Kỳ”. Hoa Kỳ có 70 Viện Khổng Tử. Giáo sư May cho biết hiệp ước ký kết giữa hai đại học Hoa Kỳ và Bắc Kinh bó buộc Viện Khổng Tử ủng hộ đường lối chính trị của Bắc Kinh. Tại các đại học Hoa Kỳ, giáo sư và sinh viên tự do thảo luận mọi vấn đề, kể cả chính sách của Hoa Thịnh Đốn. Thế nhưng tại các Viện Khổng Tử ba chữ T trở thành cấm kỵ (Taiwan, Tibet, Tianmen – Đài Loan, Tây Tạng và Thiên An Môn).
Từ học chữ Hán, đọc Tứ thư, Ngũ kinh, học hội họa Tàu, viết chữ thảo, tập Tai Chi… người địa phương dành hết cảm tình mình cho văn hóa lâu đời của Trung quốc mà quên đi chế độ hiện hành độc tài Cộng sản, quên đi các cuộc đàn áp nhân quyền, đàn áp công nhân, quên đi các trại Lao Cải địa ngục ở Trung quốc. Cuộc thăm dò qua 27 quốc gia của Đài BBC Quốc tế Vụ tháng 3 đầu năm nay cho thấy cảm tình người dân Tây phương gia tăng đối với Trung quốc. Anh quốc đứng hàng thứ 8 sau Hoa Kỳ, Pháp đứng hàng thứ 5. Tại Phi châu, 85% dân chúng Nigeria có cảm tình nồng hậu với Trung quốc. Hơn cả người dân Trung quốc vốn chỉ có 77%.
Ngoài di dân và văn hóa Khổng Tử, còn sự xâm nhập kinh tế tài chính. Trung quốc đang giàu tiền. Ai cũng biết Trung quốc hiện là chủ nợ của Hoa Kỳ. Cuộc khủng hoảng kinh tế tại Hy Lạp, tại Châu Âu, đang được Trung quốc đem đồng nhân dân tệ mua lại khá nhiều công ty của Châu Âu.
Trở lại với đất nước Việt Nam chúng ta thì nguy cơ Biển Đông rõ ràng hơn cả.
Đành rằng trong tầng lớp nhân dân và giới trí thức Trung quốc ý thức dân chủ Tây phương đang manh nha và đề xuất. Như ta nhận thấy qua một số lên tiếng gần đây. Ví dụ trường hợp Tướng hai sao Lưu Á Châu, Chính ủy Đại học Quốc phòng, thuộc con giòng cháu giống cộng sản. Cha vợ ông là cố thủ tướng Lý Tiên Niệm. Trong bài phỏng vấn của tuần báo Phượng Hoàng (Phoenix Weekly) ở Hồng Kông hôm 12.8.2010, Lưu Á Châu cho rằng Trung Quốc phải cải tổ dân chủ theo mô hình hiện hành tại Mỹ nếu không muốn bị sụp đổ theo kiểu Liên Xô trước đây. Ông cực lực đả kích tình trạng chạy theo tiền bạc đang ngự trị ở Trung Quốc, khi so sánh chế độ chính trị hiện hành ở Trung Quốc với thể chế dân chủ tại Hoa Kỳ. Lưu Á Châu nói : “Nếu một thể chế không cho người dân được hít thở không khí tự do và phát huy sức sáng tạo, nếu hệ thống ấy không lựa chọn được những người tốt nhất làm đại diện cho chế độ và nhân dân để đưa vào các vị trí lãnh đạo, hệ thống ấy tất yếu phải diệt vong”. Ông ca tụng tinh thần quốc gia mạnh mẽ, cường tráng, đồng tâm nhất trí của nhân dân Hoa Kỳ khi vụ Twin Towers bị phá sập ngày 9.11, và cho rằng “Bí quyết thành công của Hoa Kỳ nằm ở hệ thống nhà nước pháp quyền tồn tại lâu đời và ở thể chế chính trị làm cơ sở cho hệ thống đó, chứ không nằm ở trung tâm tài chánh Wall Street hay ở trung tâm công nghệ Silicon Valley”. Ông tiên đoán là nếu không cải cách dân chủ, Trung Quốc sẽ không thể nào tiếp tục đà vươn lên như hiện nay.
Một ví dụ khác là cuốn sách của ông Triệu Tử Dương “Quốc gia đích tù phạm” (Người tù của Nhà nước) bản dịch tiếng Anh ra đời năm 2009. Sách ghi lại 30 giờ đồng hồ thu băng bí mật lúc ông còn sống trong tình trạng quản chế. Ông nói nhiều tới phong trào Lục Tứ, tức sự biến Thiên An Môn mà ông là người hậu thuẫn. Tuy nhiên ông cũng phê phán nhiều đến cơ chế Cộng sản Trung quốc và tiên liệu Trung quốc phải áp dụng nền dân chủ Hoa Kỳ mới đem lại tiến bộ cho nhân dân.
Từ thực tế này, chúng ta cần nhận thức cuộc tranh đấu của chúng ta hiện nay chống chủ trương xâm lược của Đảng Cộng sản ở Bắc kinh. Nhưng chúng ta không chống nhân dân Trung quốc. Vì hai khối nhân dân đều là nạn nhân của Đảng Cộng sản quốc tế. Đừng đi quá xa trong vấn đề “Chống Tàu” cực đoan biến thành chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi kiểu Sô-vanh (chauvinisme). Chúng ta phục vụ dân tộc nhưng quan điểm dân tộc của chúng ta là quan điểm dân tộc sáng suốt của tính tương duyên tương sinh. Chúng ta cần liên minh với giới trí thức và nhân dân yêu chuộng tự do, dân chủ Trung quốc. Cho nên cần nỗ lực liên hệ với khối dân chủ đang lên này để tạo thế liên minh dân chủ Châu Á.
Đành rằng chúng ta biết những tiếng vọng dân chủ nói trên còn phôi thai dù được âm thầm chuẩn bị, và mối lo cấp cứu của chúng ta là đương đầu với phe Diều hâu của các tướng lãnh quân sự Bắc Kinh – phe đại biểu cho giấc mộng Đại Hán. Phe diều hầu này đang cố tín rằng tương lai Trung quốc là ở biển, và đặt vị trí chiến lược ở Nam Hải như một Địa Trung Hải của Á châu. Xem Nam hải là trục thông hai đại dương : Thái Bình dương và Ấn độ dương. Từ đây bao khắp Phi châu, sang Đại Tây dương. Họ bảo đây là “hòn đá tảng”, là “đồng tiền sinh mệnh” trên biển của Trung quốc. Sự kiện chiếm đóng hai quần đảo Hoàng sa, Trường sa và bản đồ 9 điểm hay đường Lưỡi bò nằm trong âm mưu vét hết Biển Đông vào vùng biển Trung quốc.
Từ tháng sáu năm nay kéo ròng trong ba tháng hơn, học sinh, sinh viên, nhân sĩ, trí thức, quần chúng các giới trong nước đã xuống đường biểu tình rầm rộ chống Trung quốc xâm lược ở Saigon và Hà Nội. Sự kiện chưa hề thấy trong giới trẻ sinh ra lớn lên trong khuôn đúc Cộng sản hay giới thân chính. Thế mới biết lòng yêu nước thương nòi là chất keo son sắt kết nối người Việt. Tôi đã gọi những cuộc biểu tình này là Diên Hồng Trên Đường Phố.
Thế nhưng nhà cầm quyền Cộng sản đã cấm đoán và đàn áp người yêu nước, đàn áp những người chỉ muốn dùng kéo cắt chiếc Lưỡi Bò Tàu thò trên Biển Đông.
Đọc trên Nhân dân Võng bên Trung quốc ta thấy sự xác định của nhóm Diều hâu rằng, chỉ cần Trung quốc kiểm soát Nam Hải là kiểm soát mạch sống trên biển của các vùng Đông Á, Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Họ nói Nam Hải là thanh gươm sắt chĩa vào Đông Nam Á. Phe diều hâu đã hình thành tổ chức có tên “Liên Minh Thu phục Lãnh thổ”. Không phải thu hồi những lãnh thổ Trung quốc mất, mà là thực hiện bản đồ Đại Hán từ Bắc Kinh lan xuống Miến Điện qua khắp vùng Đông Nam Á. Liên Minh lập dự án xây dựng Trường thành trên biển. Ngày xưa tổ tiên người Tàu xây dựng Vạn lý trường thành, thì nay họ xây trường thành đó trên đại dương để thu hồi biển Đông vào các vùng biển Trung quốc. Từ đây khống chế và kiểm soát con đường hàng hải ra năm châu thế giới. Liên Minh Thu phục Lãnh thổ chủ xúy tăng cường lực lượng quân sự vô địch ở Nam Hải với giấc mộng vẽ lại bản đồ Trung quốc theo hình chữ Y thay cho hình thế con gà trống hiện nay.
Nước ta như con cờ dưới tay chơi Đại Hán. Chúng ta đã đọc được trên Hoàn cầu Thời báo tiêu ngữ “Hãy giết chết bọn giặc Việt để tế cờ cho trận chiến Nam Sa”. Chẳng lạ gì, vì chính sách được phác họa từ thời ông Mao cho đến Đặng Tiểu Bình. Tiêu chí của Đặng Tiểu Bình khi nói “Chủ quyền của ta, gác tranh chấp và cùng khai thác” là sách lược xâm chiếm biển, đảo Việt Nam bằng kế hoạch củ cà rốt Hòa bình. Không tránh chấp khiến đối phương nhỏ yếu khỏi sợ hãi đến phải đối đầu. Chỉ đem món mồi lợi hại nhất thời là “cùng khai thác” dầu hỏa, hải sản mà chẳng cần biết sở hữu chủ biển, đảo đó vốn thuộc quốc gia mình. Gác tranh chấp không bởi chủ nghĩa hòa bình, mà chỉ vì chính trị thế giới ràng buộc không cho phép kéo hàng vạn quân “vào Đông Đô” như trước. Đành trá hàng với con mồi “gác tranh chấp”.
Từ sách lược “Chủ quyền của ta, gác tranh chấp và cùng khai thác” đẻ ra chiến thuật ngoại giao “đối thoại song phương”.
Các nước tranh chấp với Trung quốc trên Biển Đông gồm có Việt Nam, Phi luật tân, Mã lai á, Brunei, Đài Loan, là các quốc gia, trừ Đài Loan, thuộc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Thay vì dùng Luật biển 1982 điều chỉnh tranh chấp ở LHQ, hoặc dùng các điều ước ký kết giữa Trung quốc với ASEAN như DOC (Declaration of Conduct, Tuyên bố ứng xử của các bên trên Biển Đông) tại Nam Vang năm 2002, và mới đây COC (Code of Conduct, Bộ Quy tắc hướng dẫn thực thi DOC) ký kết giữa Trung quốc với các nước ASEAN tại hội nghị Bali ở Nam Dương từ ngày 19 đến 23.7.2001 để ngăn chận Trung quốc xâm lăng biển, đảo, thì Việt Nam lại cúi đầu quy phục Bắc Kinh chấp nhận “đối thoại và thương thảo song phương”.
Một nước nhỏ, chậm tiến và nghèo như Việt Nam đối diện với anh khổng lồ đại phú Bắc phương thì cuộc “đối thoại song phương” đưa về đâu nếu không là cúi qùy và bái lạy để dâng đất, dâng biển cho Thiên triều ?!
Cuối tháng 7.2010 khi bà Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hilary Clinton đến Hà Nội dự Hội nghị Diễn đàn An ninh khu vực (ARF) đồng thời kỷ niệm 15 năm quan hệ Mỹ Việt. Tại đây lần đầu tiên bà tuyên bố chủ trương Hoa Kỳ “đối thoại đa phương” trong các tranh chấp Biển Đông. Lời tuyên bố khai mào cho chính sách mới của Hoa Kỳ đối với Châu Á mà người ta ngờ vực trước đây khi Tổng thống Obama lên nhậm chức. Bây giờ thì đã rõ, chính sách Trung Đông của Hoa Kỳ vừa chuyển sang Châu Á. Bài phát biểu của Tổng thống Obama tại Quốc hội Úc Đại Lợi không còn là lời nói suông có tính cách ngoại giao, mà là một dấn thân bảo vệ an ninh Châu Á và Biển Đông. Đồng thời với lời tuyên bố, ông Obama điều quân đội Hoa Kỳ đến đảo Darwin, Úc. Tôi xin mở ngoặc tại đây để nói rằng Hội nghị các Quốc gia Dân chủ ở cấp ngoại trưởng và thủ tướng tại Krakow, Ba Lan, đầu tháng 7.2010, ngoại trưởng Hilary Clinton đã mời tiếp riêng 9 phái đoàn Phi chính phủ trong số hàng trăm phái đoàn Phi chính phủ có mặt. Tôi được mời đại diện cho Việt Nam trong cuộc tiếp riêng này, và tôi đã trình bày tình trạng nhân quyền Việt Nam, nhấn mạnh các tôn giáo lớn tại Việt Nam là những xã hội dân sự còn tồn tại dưới chế độ công an trị mà Hoa Kỳ cần hậu thuẫn, đặc biệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Điều bất hạnh của chúng ta hiện nay là không có một Nhà nước đại biểu chống xâm lược và bảo vệ chủ quyền như các thế kỷ xa xưa dưới các triều Đinh, Lê Lý, Trần, Lê.
Nhà nước Cộng sản ở Hà Nội đã quy phục Trung quốc của ông Mao từ lâu. Không nhắc ai cũng nhớ Công hàm ô nhục bán biển, đảo của ông Phạm Văn Đồng năm 1958 gửi Tổng lý Chu Ân Lai. Đây không là hớ hênh ngoại giao một thời, mà cả một chính sách làm tay sai cho nhà Hán. Đầu thập niên 80 chúng ta từng đọc những kiến nghị của những người cộng sản thâm căn cố đế ở Hà Nội như Nguyễn Khắc Viện, hay trên ba chục trí thức theo Hà Nội tại Pháp, trong đó có học giả Hoàng Xuân Hãn, báo động tình trạng theo Trung Cộng là đi vào chốn diệt vong. Ấy thế mà tình trạng vẫn không thay.
Quý vị đại biểu nên tìm đọc cuốn “Hồi ức và Suy nghĩ” của Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ phát hành chui đầu thập niên 2000, để biết quá trình lệ thuộc Tàu của toàn thể lãnh đạo Hà Nội với những khuôn mặt không nhỏ như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Đỗ Mười, Lê Duẩn, Lê Đức Anh, v.v…
Tôi đơn cử ba ví dụ lệ thuộc chính trị Bắc Kinh của Hà Nội mà tôi nghĩ có tính cách lịch sử cận và hiện đại :
– Giữa năm 1954, Chu Ân Lai triệu Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sang Liễu Châu nhằm chỉ thị bắt Phạm Văn Đồng không được đòi hỏi Pháp thái quá tại hội nghị Genève. Những yêu sách của Hà Nội sau cuộc chiến thắng Điện Biên Phủ đã phải răm rắp tuân theo tiêu chuẩn Bắc Kinh mà chủ đích nhằm rao hàng và mở đầu cho cuộc ra mắt Ngoại giao Trung quốc trên trường quốc tế thay vì bảo vệ quyền lợi Việt Nam.
– Bắc kinh triệu tập Phạm Văn Đồng và tập đoàn Hà Nội sang Thành Đô tháng 9 năm 1990 để o ép Hà Nội chấp nhận giải pháp Cam-bốt của Trung quốc.
– Ngoại trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch không được có mặt tại hội nghị trên, vì khuynh hướng muốn thương thảo với Hoa Kỳ để thoát cảnh cấm vận, sau đó bị Bắc Kinh cách chức vào năm 1991.
Do cuồng tín ý thức hệ mà lãnh đạo Hà Nội đánh mất quan điểm dân tộc, nên bó tay trước các vấn nạn. Hà Nội khăng khăng xem Bắc Kinh như đàn anh lãnh đạo Xã hội Chủ nghĩa để chống đế quốc. Trong khi quan hệ Bắc Kinh với Việt Nam chỉ là thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau – thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu !
Hai Hiệp ước Biên giới trên đất ký năm 1999 và trên Biển ký năm 2000 đã đánh mất hàng nghìn cây số vuông trên vùng biên giới, hàng chục nghìn cây số vuông trên biển, mất Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, v.v…
Trước thực trạng này, GHPGVNTN thông qua tiếng nói của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ luôn đi đầu trong ưu tư bảo vệ chủ quyền. Ngài thấy nguy cơ mất nước, mất tổ quốc, đưa tới hậu quả đạo Phật Việt cũng bị tiêu diệt khi Bắc Kinh xâm lấn. Điều ta đã chứng kiến dưới thời Minh xâm lược.
Người Công sản không có khái niệm tổ quốc như chúng ta. Việt Nam bị Trung quốc xâm chiếm thì họ có mất mát gì đâu, họ vẫn phây phây sống dưới trang thờ Mao-Mác-Lê-Hồ. Tổ quốc của họ là Tổ Quốc tế Cộng sản theo quan điểm “dân tộc” mà Staline đề xướng (3), chẳng dính líu chi với con cháu Vua Hùng.
Chúng ta không nên quên ba chuyến đi Bắc Kinh của lãnh đạo Hà Nội gần đây để cúi qùy nhận lệnh Bắc Kinh mà chẳng có phản ứng gì bảo vệ dân và nước trước thế lực xâm lăng. Khiến Đức Đệ Ngũ Tăng Thống phải viết Thư Ngỏ gửi ông Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng (4) nói lên quan điểm người dân trước nguy cơ mất nước.
Chuyến đi thứ nhất của Hồ Xuân Sơn ngày 25.6.11 thương thảo vấn đề Biển Đông với Bắc Kinh. Cần nhớ trước kia Hồ Xuân Sơn ở trong phái đoàn ký kết hai Hiệp định biên giới và trên biển năm 1999- 2000 làm mất những địa danh như Ải Nam quan, Thác Bản Giốc, v.v… Hồ Xuân Sơn hiện là Thứ trưởng Ngoại giao đồng thời là Chủ nhiệm Biên giới Quốc gia. Lần này Hồ Xuân Sơn gặp Đới Bỉnh Quốc là người quyết định về đối ngoại của Bắc Kinh. Một chuyến đi chuẩn bị cho sự chấp nhận mọi điều kiện Trung quốc đặt ra mà ta sẽ thấy rõ qua hai chuyến đi sau.
Chuyến đi thứ hai hôm 28.8.2011 là cuộc “Đối thoại chiến lược An ninh và quốc phòng lần 2”. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng Hà Nội gặp Thượng tướng Mã Hiếu Thiên. Họ nói với nhau những gì ? Tân Hoa Xã cũng như báo Quân Đội Nhân Dân cho biết Nguyễn Chí Vịnh hứa nhất trí đánh giá quan hệ hai nước dưới sự chỉ đạo của phương châm 16 chữ vàng và Bốn tốt. Xin nói ra cho những đại biểu nào chưa biết, 16 chữ Vàng gồm có Láng giềng hữu nghị / Hợp tác toàn diện / Ổn định lâu dài /, Hướng tới tương lai. Còn Bốn tốt, là Láng giềng tốt /Bạn bè tốt / Đồng chí tốt / Đối tác tốt. Chi cũng tốt, cũng vàng. Nhưng thực tế là ta mất tất cả. Điều thứ hai Nguyễn Chí Vịnh bảo đảm với Bắc Kinh là tuyên bố “Kiên quyết xử lý tập trung đông người ở Việt Nam không cho tái diễn”.
Như ta biết từ đầu tháng sáu năm nay, tiếp diễn ròng rã cho đến ba tháng sau, học sinh sinh viên nhân sĩ trí thức xuống dường biểu tình tại Saigon và Hà Nội hô những khẩu hiệu chống Trung quốc xâm lược. Thế nhưng nay Nguyễn Chí Vịnh sang Tàu lại hứa dẹp biểu tình, đến khi về ông ta làm thật. Những người biểu tình này là ai ? Họ là những người sinh ra, lớn lên, làm việc và phục vụ chế độ Cộng sản mấy mươi năm trường. Thế mà nay tinh thần yêu nước của cha ông sống dậy trong huyết quản họ, khiến họ không thể làm ngơ trước sự bất động và bán nước của lãnh đạo Hà Nội. Họ đứng dậy và xuống đường như một cử chỉ nghìn năm của người dân Việt chống ngoại xâm.
Chuyến đi thứ ba của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng, sang Trung quốc hôm 11.10.11. Sang đây ông ký thỏa thuận với Bắc Kinh cái gọi là “Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”. Tinh thần thỏa thuận mà báo chí hai nước như Tân Hoa Xã, Quân đội Nhân dân tiết lộ là sự lập lại kế sách của Đặng Tiểu Bình : “Gác tranh chấp, cùng chung khai thác”. Tuy nhiên vế đầu của kế sách họ Đặng thì giấu đi, không nói ra. Không nói ra nhưng đôi bên ngầm hiểu và công nhận : “Chủ quyền của ta – của Trung quốc”. Điều bi thương là trong ngày ký kết, các cơ quan truyền thông truyền hình Trung quốc loan tin họ vừa thiết lập một trạm quân y trên đảo Chữ Thập, Trung quốc gọi đảo Vĩnh Thử, là nơi xẩy ra cuộc hải chiến giữa Trung quốc và Việt Nam năm 1988, giết 72 hải quân Việt Nam khi chiếm đảo. Ông Nguyễn Phú Trọng chẳng có một lời bình luận hay phản bác !
Không chỉ Việt Nam hay chuyện trong vùng, mà tất cả những biến động thế giới đều không thoát khỏi con mắt và sự sắp đặt của Trung quốc. Chẳng hạn như Mùa Xuân Ả Rập. Những cuộc xuống đường của giới trẻ, dùng điện thoại di động, Facebook đánh đổ những tên độc tài 40, 50 năm ngự trị tại Trung Đông, Tunisie, Ai Cập, Libye…
Một hình ảnh chúng ta chưa quên trong cuộc đấu tranh Phật giáo cho tự do tín ngưỡng năm 1963, là Ngọn lửa tự thiêu của Bồ Tát Quảng Đức. Trung Đông cũng khởi đầu với một ngọn lửa tự thiêu. Một người bán rau ở Tunise vì chế độ ức chế, cuộc sống lâm cảnh cùng đường, anh đổ xăng lên người tự thiêu. Ai ngờ Ngọn lửa tự thiêu của một người bán rau tại Tunisie đã thiêu đốt tất cả các chế độ độc tài toàn trị Trung Đông. Biết đâu ảnh hưởng này không đến từ Phật giáo Việt Nam ?
Bắc Kinh rất lo âu trước sự kiện Trung Đông, nên Bộ trưởng Công an Trung quốc Meng Zhangxu bay sang Miến Điện gặp gỡ giới tướng lãnh đã đàn áp chư Tăng Miến năm 2007 trong cuộc xuống đường đòi hỏi dân chủ. Cuộc gặp gỡ không riêng cho việc ngoại giao, trao đổi ý kiến, mà để bày cho Miến Điện phương cách ngăn chận Internet của giới hoạt động dân chủ, nhằm chận đứng thanh niên xuống đường như đã xẩy ở Trung Đông. Điều cho thấy, Trung quốc không những kiên quyết áp đặt sự “ổn định chính trị” tại Trung quốc, mà còn cấm đoán mọi phong trào đòi hỏi dân chủ trong vùng Trung quốc ảnh hưởng. Sau chuyến đi Miến Điện ông ta bay sang Lào gặp Thong bang Sengaphon, Bộ trưởng Công an Lào trong cùng mục tiêu ổn định xã hội dưới chế độ độc tài cộng sản, không cho thanh niên xuống đường. Sau đó bay tới Việt Nam gặp thứ trưởng Công an Bùi Văn Nam chỉ thị việc ngăn chận mọi cuộc nổi dậy chống độc tài ở Việt Nam.
Trong bức Thư Ngỏ của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ gửi ông Nguyễn Phú Trọng, ngài chất vấn sao lãnh đạo Hà Nội không có phản ứng quốc tế trước các âm mưu xâm lấn biển đảo của Trung quốc ? Dù ngài biết câu trả lời đã được ông Nguyễn Chí Vịnh xác định khi tới Bắc Kinh là “Việt Nam không quốc tế hóa vấn đề trên biển”, tức chấp nhận yêu sách “thương thảo song phương” của Trung quốc, chứ không là “đa phương” để có lợi thế hậu thuẫn quốc tế. Muốn có lợi thế quốc tế, trước phải tạo thế liên minh với các khối cường quốc, tiếp đến là dùng Luật Biển 1982 tại LHQ và hai Hiệp ước DOC và COC của ASEAN mà chúng ta đề cập lúc nãy.
Cho nên sự tham gia của người Phật tử làm cho công luận thế giới thông tỏ hiểm nguy Bắc Kinh xâm lược Việt Nam để bảo vệ chủ quyền dân tộc vô cùng quan trọng.
Chúng ta không cô thân độc ảnh, tình hình khách quan và quốc tế rất thuận lợi. Hoa Kỳ đã có sách lược Châu Á bảo vệ Biển Đông. Các nước ASEAN bắt đầu ý thức tới sức bành trướng chính trị và quân sự của Trung quốc. Trục liên minh Ấn – Nhật – Úc đang hình thành. Mặt khác, hiện nay, Trung quốc chưa đủ sức mạnh quân sự đối đầu Hoa Kỳ.
Tôi bỗng nhớ ngày xưa đọc chuyện Tàu, lấy làm lạ mỗi khi đánh nhau hai quân không xáp chiến ngay. Dàn quân xong, hai tướng lên tiếng thách thức, xỉ vả, bêu riếu, chửi bới, hạ nhục nhau một hồi rồi mới thúc ngựa hoa long đao tỉ thí tới chết.
Ngày nay cũng vậy, những động thủ mà Trung quốc hăm dọa, hoạnh họe, ra quân chiếm đóng đảo này, biển kia, mới là màn giáo đầu so gân mong làm mất vía đối phương. Mới là ngồi trên ngựa thách thức, xỉ vả, bêu riếu, hạ nhục đối phương – một chiêu tâm lý chiến. Đối phương sợ hãi, không dám sừng sỏ phản ứng, thì Trung quốc tiến tới làm bá chủ tình hình.
Ngày xưa cha ông chúng ta có xuống ngựa quy hàng trước cơn thịnh nộ của các tướng Tống, Nguyên, Minh, Thanh đâu ? Nay sao Bộ Chính Trị của Đảng “bách chiến bách thắng” Cộng sản lại có thể dễ dàng mất vía sớm vậy ?!
Trong Thư Ngỏ gửi ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ đưa ra giải pháp cứu nước ngày nay là Dân chủ hóa Việt Nam. Đúng vậy, đây là cẩm nang cứu nước. Có dân chủ đa nguyên đa đảng, các gia đình tôn giáo, chính trị và mọi tầng lớp nhân dân mới có thể tham gia ý kiến bảo vệ chủ quyền và phát triển đất nước.
Là người Phật tử, chúng ta hãy hết mình tham gia đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa Việt Nam ngày nay, thông qua Chương trình 8 điểm đề ra trong “Lời Kêu Gọi Cho Dân Chủ Việt Nam” của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ năm 2001 (5).
(1) Xem Sách lược Tâm Công, tr. 99, trong Nguyễn Trãi, Sinh thức và Hành động, Võ Văn Ái, Quê Mẹ xuất bản lần thứ 3, Paris 1992.
(2) Xem Thông cáo Báo chí ngày 30.3.2009 của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế. Tại Khoáng đại I khi sang phần hội thảo có đại biểu nhắc tới “Lời Kêu Gọi Biểu Tình Tại Gia” và cho biết một số nhỏ chừng 2, 3 người viết bài bêu riếu “Biểu tình tại gia”. Tuy 2,3 kẻ bêu riếu không đáng kể vì các bài viết hạ cấp với ngôn ngữ thất học, chợ búa, nhưng cũng có người chưa hiểu hết nội dung nên yêu cầu có một khoáng đại riêng đi sâu vào nội dung và hình thức “Biểu tình tại gia”. Nhân đây xin giới thiệu bài ký giả Triều Thanh phỏng vấn tôi trên Đài Phát thanh Phật giáo Việt Nam ngày 11.9.2009 được đăng trên Thông cáo Báo chí của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế cùng ngày. Cũng nên nhớ rằng “Lời Kêu Gọi Biểu Tình Tại Gia” đã được sự hậu thuẫn nồng nhiệt của đồng bào hải ngoại, với chữ ký của 148 hội đoàn, tổ chức, đảng phái, và 3670 chữ ký cá nhân trong và ngoài nước.
Sau đây xin ghi một số trích đoạn của bài phỏng vấn tôi liên quan đến ý nghĩa cuộc “Biểu tình tại gia” : “Cuộc đấu tranh cho dân chủ là một tiến trình. Tiến trình là khoảng thời gian chuyển hóa các hiện trạng tha hóa, xấu ác thành một xã hội công bằng, huynh đệ. Ta thấy rất rõ công cuộc dân chủ hóa Liên xô và các nước Đông Âu cũ là một tiến trình kéo dài trên 70 năm kể từ cuộc Cách Mạng Nga tháng Mười. Chuyện thành quả tức khắc trong đời chỉ thấy ở sòng bạc, hay ở các cuộc thi đấu. Như thi đấu bóng đá kéo dài 90 phút, tỉ thí trên võ đài kéo dài 12 hiệp, kết quả ai thắng ai thua được biết ngay. Đấu tranh cho dân chủ, giác ngộ thành đạo, hoặc phấn đấu lên thiên đàng, thì không thể có kết quả ngay, mà phải kinh qua một tiến trình đầy nỗ lực cam go và bền chí.
“Từ ngày người Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm Việt Nam Cộng hòa đến nay đã 34 năm. Thử hỏi có ai, có tổ chức, đảng phái nào dám tuyên bố mình đã thành công cái gọi là Chống Cộng hay chưa ? Đương nhiên là chưa, bởi vì Cộng sản vẫn thống trị dân lành 54 năm tại miền Bắc, 34 năm tại miền Nam. Có ai thành công đâu, dù rằng giới tranh đấu đã thí nghiệm đủ thứ vũ khí chiến đấu, khi thì kháng chiến quân sự, lúc thì nhân quyền, dân chủ. Nhưng chưa có một người hay một phong trào chống Cộng nào thành công cả. Tất cả đang trên đà thử lửa. Cho nên, đứng từ phạm trù này bêu riếu phạm trù kia chỉ là việc làm vô bổ của kẻ ăn không ngồi rồi, nhàn cư vi bất thiện, chứ không là ưu tư khiêm tốn và nung nấu ý chí của người chiến đấu.
“Từ nhận định thất bại này, và trong vị thế của một Tăng sĩ, nhà tu hành Phật giáo, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ đưa ra “Lời Kêu gọi Tháng 5 Bất tuân dân sự – Biểu tình Tại Gia” như một mô thức đấu tranh bất bạo động mới. Mô thức này đã thành công giành độc lập từ tay Đế quốc Anh tại Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Thánh Gandhi, và tại Hoa Kỳ Chống Kỳ thị Chủng tộc của Mục sư Martin Luther King.
“Người ta đã thử đủ thứ phương pháp, mô thức, nhưng vẫn chưa thành công. Thì sao lại có thể phê phán hay vội vã kết luận về mô thức mới mà chưa ai tham gia thực hiện ?
“Phật giáo là đạo Từ bi, đạo hòa bình, đạo khoan dung, nên người Phật giáo sử dụng vũ khí bất bạo động trong cuộc đấu tranh. Cuộc đấu tranh đánh đuổi Đế quốc Anh của Thánh Gandhi ở Ấn Độ thập niên 40 hay cuộc đấu tranh Chống kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ thập niên 60 của Mục sư Martin Luther King đều sử dụng phương pháp bất bạo động. Và họ đã thành công. Tại sao ta tự khinh để xác quyết là không thể thực hiện ở Việt Nam hôm nay ?
“Nhìn vào lịch sử cận đại của thế giới, tôi nhận xét và thấy giữa thế kỷ XIX có hai bản Tuyên ngôn quan trọng làm thay đổi bộ mặt nhân loại trong thế kỷ XX. Đó là hai bản Tuyên ngôn của Marx-Engels và của Henry David Thoreau.
“Bản Tuyên ngôn Cộng sản của Marx-Engels ra đời năm 1848 đưa tới phương thức lấy căm thù làm sức mạnh để cướp chính quyền, tức chủ thuyết đấu tranh giai cấp. Người cộng sản sử dụng khủng bố và thảm sát để “cải tạo” nhân loại. Kết quả cuộc đấu tranh này như thế nào tại mẫu quốc Liên Xô lan tới các nước chư hầu Âu Á, chúng ta không cần bàn sâu. Vì bản kết toán đã thực hiện cuối thập kỷ 80 với sự sụp đổ của chủ thuyết chống-con-người kéo theo sự tan rã của các Nhà nước Liên Xô và Đông Âu. Bản kết toán cộng sản, là chủ nghĩa Cộng sản, được tính bằng con số hàng trăm triệu người bị thảm sát, hàng nghìn quần đảo ngục tù, lò Lao Cải hay tập trung Cải tạo.
“Tuyên ngôn thứ hai nằm trong tập sách “Bất Tuân Dân sự” do Henry David Thoreau công bố năm 1849 tại Hoa Kỳ. Bản Tuyên ngôn Cộng sản đặt trọng tâm đấu tranh vào tập thể, một thứ tập thể trại lính, ở đó con người cá thể bị truy diệt. Còn Tuyên ngôn Bất Tuân Dân sự của Thoreau lấy đơn vị cá thể của con-người-ý-thức làm năng lực thăng tiến xã hội loài người. Tập sách “Bất tuân Dân Sự” của Henry David Thoreau đã ảnh hưởng lớn và làm kim chỉ nam hành động có ý thức cho những khuôn mặt lớn trên địa cầu như Léon Tolstoi, Gandhi, Martin Luther King, John Kennedy, v.v… làm nên châm ngôn mẫu mực là Một Con Người Ý Thức Có Khả Năng Đánh Đổ Một Bạo Quyền.
“Tôi xin trích một vài câu trong sách Bất Tuân Dân sự của Henry David Thoreau nói lên tinh thần chiến đấu bất bạo động của con-người-ý-thức trước các chính quyền bất hảo. Thoreau nói “Chính quyền tốt lành nhất là chính quyền ít sử dụng quyền thống trị”. Ông cũng nói “Chúng ta phải là con người trước khi trở thành công dân”. Về tinh thần cách mạng, Thoreau quan niệm : “Mọi người thừa nhận quyền cách mạng của mình, quyền này là quyền chối bỏ sự trung thành và thần phục với một chính quyền. Đây chính là quyền đối kháng trước bạo quyền hay sự bất lực hiển nhiên và bất nhẫn của bạo quyền này (…) Khi một phần sáu nhân dân của một quốc gia tự khẳng định họ là căn cứ địa của tự do, nhưng thực tế căn cứ địa ấy được cấu thành qua một đám dân nô lệ, và toàn quốc đang là miếng mồi vô cớ cho sự xâm lăng, bị lính ngoại quốc xâm chiếm rồi đem quân luật bao trùm lãnh thổ, thì tôi nghĩ rằng những người lương thiện phải cấp tốc nổi dậy để biến mình thành lực lượng chống kháng”. Cho nên Thoreau kết luận “Khi người dân bất tuân dân sự, khi các viên chức từ quan, đó là lúc cuộc cách mạng thành công”. Đối với bạo chính, Thoreau quan niệm “Dưới một chính thể bắt người một cách tùy tiện, bất công, thì chỗ chính đáng cho con người cương trực cư ngụ là nhà tù”. (…) Ông cũng xác định “Chẳng bao giờ có một Nhà nước thực sự tự do và sáng suốt, bao lâu Nhà nước ấy chưa công nhận cá thể con người với quyền tối thượng và độc lập của cá thể, để từ đó dựng lên quyền lực và uy thế của một chính quyền biết hành xử tương xứng với con người cá thể”.
“Tôi vừa dẫn vài quan điểm về vai trò của con-người-ý-thức trước những chính thể bạo ác viết trong tập sách “Bất Tuân Dân Sự” của Henry David Thorau đã ảnh hưởng và đưa tới thành công trong cuộc tranh đấu giành độc lập tại Ấn Độ thập niên 40, và công cuộc chống kỳ thị chủng tộc tại Hoa kỳ thập niên 60. Hai ví dụ thành công điển hình của con đường đấu tranh bất bạo động. Gandhi không làm đổ máu dân Ấn mà đế quốc Anh phải cuốn gói ra đi. Trong khi ấy, cuộc chiến đấu bạo động hung tàn của ông Hồ Chí Minh chỉ đưa dân tộc vào tròng ách ngoại lai cộng sản với cái giá mười triệu người chết thảm.
“Như vậy, chúng ta thấy hai bản Tuyên ngôn cùng cất lên giữa thế kỷ XIX. Nhưng một tuyên ngôn đưa nhân loại vào cõi chết, một tuyên ngôn đưa con người vào sự sống có ý thức, đưa nhân loại vào thế giới Chân Thiện Mỹ.
“Lời Kêu Gọi Tháng 5 Bất tuân dân sự – Biểu tình Tại gia” của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ là nhận thức mới về con đường đấu tranh bất bạo động của Henry David Thoreau, Gandhi, Martin Luther King áp dụng vào hiện tình Việt Nam”.
(3) Quan điểm của Staline là, “Trên thế giới còn có loại dân tộc khác. Đó là dân tộc kiểu mới, tức dân tộc Xô-viết” (…) “Dân tộc loại ấy nên gọi là Dân tộc Xã hội Chủ nghĩa”. Xem tác phẩm của Staline về vấn đề dân tộc, như “Chủ nghĩa Mác với vấn đề dân tộc” (1913) ; và “Vấn đề dân tộc với chủ nghĩa Lê-nin” (1923).
(4) Xem Thông cáo báo chí của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phát hành ngày 24.10.2011.
(5) Lời Kêu gọi đã được cơ sở Quê Mẹ : Hành động cho Dân chủ Việt Nam & Ủy ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam đệ trình Ủy hội Nhân quyền LHQ tại Genève tháng 4.2001 tại khóa họp lần thứ 57, với sự hẫu thuẫn chưa từng có của hàng trăm nhân vật quốc tế bao gồm Giải Nobel Hòa bình, nhà văn, nhà dân chủ, Thượng nghị sĩ và Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ, Dân biểu Quốc hội Châu Âu, Pháp, Ý, v.… và đặc biệt 308.027 chữ ký của người Việt trong và ngoài nước, một con số chưa bao giờ đạt được từ sau năm 1975. Xem Thông cáo báo chí của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phát hành ngày 27.2.2001, và Tham luận của Võ Văn Ái “Thâm nhập “Lời Kêu Gọi Cho Dân chủ Việt Nam” của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN” trình bày tại Đại lễ Phật Đản, Los Angeles, ngày 21.4.2001.