Nhân danh Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ vừa viết một bức thư gửi giới lãnh đạo ở Hà Nội phản đối tình trạng quản chế phi pháp đối với Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và Hòa thượng từ một năm hơn. Thư gửi đến các ông Nông Ðức Mạnh, Tổng Bí thư Ðảng Cộng sản Việt Nam, Ông Trần Ðức Lương, Chủ tịch CHXHCNVN, Ông Phan Văn Khải, Thủ tướng CHXHCNVN, và Ông Nguyễn Văn An, Chủ tịch Quốc hội CHXHCNVN. Trước đây, ngày 17.10.2003, Thượng tọa Thích Viên Ðịnh, Phó Viện trưởng Viện Hóa Ðạo đã viết thư gửi giới lãnh đạo Hà Nội yêu cầu trả tự do cho hai vị lãnh đạo cao cấp Giáo hội, qua ngày 19.4.2004, Thượng tọa Thích Viên Ðịnh lại cùng với Hòa thượng Thích Ðức Chơn ký chung thư nêu lại vấn đề của hai ngài và hàng giáo phẩm. Nhưng không được hồi âm.
Bức thư của Hòa thượng Thích Quảng Ðộ đã được gửi đi từ Saigon hôm sáng thứ hai, 25.10.2004, bằng đường bưu điện bảo đảm có hồi báo. Hòa thượng viết : “Kể từ cuộc đàn áp bắt bớ không lý do hàng giáo phẩm thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở Lương Sơn gần thành phố Nhatrang sáng ngày 9.10.2003, trong ấy có Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi, Thích Quảng Ðộ, tính đến nay đã 378 ngày tôi bị quản chế hành chính tại Thanh Minh Thiền viện theo khẩu lệnh của Công an thành phố Hồ Chí Minh. Trong thế giới, chưa hề có quốc gia văn minh nào quản chế công dân bằng “khẩu lệnh” như ở nước ta ! Còn Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang thì bị dẫn độ về quản chế, cũng bằng “khẩu lệnh”, tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Ðịnh. Tuyệt nhiên chúng tôi không biết quản chế về tội gì, vì chưa một lần xét xử nên chẳng có án lệnh. Hơn bốn năm nay, đường dây điện thoại của tôi bị cắt, công an canh gác cẩn mật trước chùa, không ai được tự do thăm viếng tôi”.
Hòa thượng cho biết việc quản chế như thế là phi pháp vì hai lẽ : “một là bắt bớ, quản chế không lý do ; hai là chiếu theo điều 10 trong Bộ luật Tố tụng hình sự, thì “không ai có thể coi là có tội và phải chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, điều 71 trong cùng bộ luật, thì “thời hạn tạm giam không được quá 2 tháng đối với tội ít nghiêm trọng ; không được quá 4 tháng đối với tội nghiêm trọng”. Tổng cộng tối đa không được quá 12 tháng, và “khi đã hết thời tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam”.
Tuy Hòa thượng có nghe rằng “ông Lê Dũng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao, tuyên bố với báo chí quốc tế hôm thứ sáu 10.10.2003, rằng lý do bắt bớ Ðức Tăng thống và tôi là do hai chúng tôi tàng trữ “bí mật Nhà nước”. Nhưng Hòa thượng Thích Quảng Ðộ bác bỏ lý do ấy khi viết : “Nếu đã tìm thấy “bí mật Nhà nước”, thì tại sao cơ quan công an hay Nhà nước không công bố các “tài liệu” ấy ra cho nhân dân trong nước và công luận thế giới được am tường ? Sự im lặng này kéo dài trên một năm hơn rồi, chứ đâu còn là chuyện mới xẩy ra hôm qua ?” (…) “Tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng, trong Bộ luật Hình sự của CHXHCNVN không thấy một điều nào quy cho tội tàng trữ “bí mật Nhà nước”. Như vậy thì sự vu cáo Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi có cơ sở pháp lý để bắt và quản chế suốt hơn một năm qua không ?”
Rồi Hòa thượng nêu ra câu hỏi với giới lãnh đạo ở Hà Nội, phải chăng lý do trên “vốn vô tội chiếu theo bộ Luật Hình sự, chỉ tạo tiền đề cho một vu cáo khác” nhằm “khép vào “tội gián điệp” là tội có thể lĩnh án 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” hoặc “tội cố ý làm lộ bí mật Nhà nước”, chiếu điều 263 có thể bị phạt tù đến 15 năm ?” . Theo Hòa thượng, thì đây chính là “thực trạng phi pháp phổ biến đang tồn tại trong xã hội nước ta ngày nay nhằm khủng bố người hiền lương”. Hòa thượng xác định rằng Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang cũng như Hòa thượng “không mắc vào bất cứ một tội nào cả, ngoài sự kiện chúng tôi bị các cơ quan công quyền vu hãm và lăng nhục suốt một năm hơn”. Hòa thượng yêu cầu giới lãnh đạo Hà Nội “là người lo việc nước việc dân tất không thể nại bất cứ cớ gì để làm ngơ không xử lý” và hãy “xuống lệnh cho các cơ quan công quyền chấm dứt tình trạng phi pháp nói trên”.
Kết thúc bức thư, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ cho biết rằng Ðảng và Nhà nước bắt đầu công cuộc cải thiện luật pháp gọi là “Chiến lược phát triển hệ thống Pháp luật Việt Nam” thực hiện trong vòng bảy năm, bắt đầu từ ngày 4.9.2003. Ðảng và Nhà nước đã nhận được của thế giới một khoản tài trợ năm (5) triệu Mỹ kim cho bốn năm đầu. Do đó, Hòa thượng viết : “Với ý chí phát triển và cải thiện nền pháp luật Việt Nam, với số tiền to lớn mà thế giới cung cấp, tôi hy vọng rằng làm sáng tỏ việc bắt bớ, quản chế Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi suốt một năm qua, và việc vu cáo chúng tôi tàng trữ “bí mật Nhà nước” cần được giải quyết nhanh chóng và công minh theo hướng phát triển nền pháp luật mới trên đất nước này”.
Sau đây Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải nguyên văn bức thư nói trên :