Home / Tin tức / Thông cáo báo chí / Tin PTTPGQT / Tưởng nhớ Nhà văn Hoàng Tiến :
Ngày Xuân đọc hai bức Thư Xuân

Tưởng nhớ Nhà văn Hoàng Tiến :
Ngày Xuân đọc hai bức Thư Xuân

Download PDF

PARIS, ngày 14.2.2013 (PTTPGQT) – Đài Phát thanh Phật giáo Việt Nam đã làm hai chương trình phát về Việt Nam tưởng nhớ Nhà văn Hoàng Tiến vừa về cõi Phật hôm 28.1.2013. Nói đến Nhà văn Hoàng Tiến là nói tới một phong trào các cựu đảng viên Cộng sản thức tỉnh về tình tự dân tộc sau mấy mươi năm dài lãng quên theo ý thức hệ ngoại lai Tây phương và Trung quốc của ông Mao.

Bỗng đầu thập niên 2000, những người ấy cỗi áo giáp ngoại lai, mặc chiếc áo dân tộc từ thời Vua Hùng, đứng lên giữa Đất thiêng Thăng Long đòi hỏi nhân quyền và dân chủ.

Điều phải nói sự khởi động dân chủ phát xuất từ Saigon đưa tới mối kết liên Bắc Nam lần đầu cho một cao trào vắng bóng trên quê hương sau 60 năm tranh chấp. Trước đó, rải rác từ Nam tới Bắc hẵng đã có những tiếng nói gào kêu cho dân chủ.

Sự khởi động từ Saigon là Lời “Kêu Gọi Cho Dân chủ Việt Nam” với giải pháp thực hiện 8 Điểm của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ công bố ngày 21.2.2001 đã được công luận người Việt trong và ngoài nước hoan nghênh.

Sang ngày Tết Ất Dậu, 2005, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ lại viết bức “THƯ CHÚC XUÂN Kính gửi quí vị Nhân sĩ, Trí thức, Văn Nghệ sĩ, và Đồng bào trong và ngoài nước”. Hòa thượng nhận định :

“Lịch sử nước ta trải dài nhiều nghìn năm cho thấy sĩ phu là giới hiểu thời vụ, nhờ hiểu thời vụ mà ra tay chuyển hóa thời đại làm cho quê hương thoát cơn luân hiểm, sinh dân được an lạc”. Kế sách của Hòa thượng nằm trong tiêu ngữ Dân chủ đa nguyên để giải quyết mọi vấn nạn bế tắc mấy chục năm qua.

Thư Chúc Xuân của Hòa thượng Thích Quảng Độ là lời tha thiết mời gọi cộng đồng Sĩ phu dân tộc hãy ngồi lại quanh một ý chí, quanh một giải pháp thay thế để “chặn ngăn các nẻo dữ, mở ra Đường lành trong năm Ất Dậu 2005”. Đường lành ấy là thế hiện nền dân chủ đa nguyên theo công sức của mỗi người.

Ngồi lại quanh nhau, đoàn kết, liên minh không là điều mới mẻ. Bởi tiếng gào kêu “đoàn kết là sống, chia rẽ là chết” đã cất lên sáu mươi năm trước từ Xuân Ất Dậu 1945.

Nhưng đoàn kết càng kêu gào, phân hóa càng cao, phân rẽ càng lắm, tranh chấp càng nhiều. Ấy chỉ vì, cho đến nay, các lời kêu gọi đoàn kết và liên minh thể hiện theo chiều dọc. Nghĩa là đoàn kết, liên minh đứng sau lưng một cá nhân, một đoàn thể, một đảng phái. Chưa là đoàn kết, liên minh chung quanh một giải pháp thay thế, một kế sách thù ứng, một thần dược tối ưu giữa hàng chục, hàng trăm toa thuốc chưa thích nghi với tạng phủ Việt Nam. Nghĩa là đoàn kết, liên minh dân tộc trên chiến tuyến hàng ngang, chứ không là hàng dọc. Hàng ngang mới đồng đẳng và bình đẳng để cùng nhau bước vào tiến trình dân chủ hóa đất nước, như tổ tiên đất Việt sử dụng trong công trình hai nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Để tưởng nhớ Nhà văn Hoàng Tiến, mà cũng là toàn thể những Nhà Dân chủ đã ra đi, cùng giới sĩ phu Bắc Hà. Đồng thời vinh danh các Nhà Dân chủ không ngừng phấn đấu ở Miền Nam, đặc biệt Thế hệ Trẻ Dân chủ vừa hiên ngang đứng lên trong những cuộc biểu tình Bắc Nam chống xâm lược và xây dựng dân chủ. Chúng tôi đăng lại Hai Bức Thư Xuân, một của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, và một của Nhà văn Hoàng Tiến :

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO
Thanh Minh Thiền Viện
90 Trần Huy Liệu, P. 15, Q. Phú Nhuận, TP. Sài gòn


Phật lịch 2548
Số : 02/VHĐ/VT
THƯ CHÚC XUÂN
Kính gửi quí vị Nhân sĩ, Trí thức, Văn Nghệ sĩ,
và Đồng bào trong và ngoài nước

Thưa quí Liệt vị,

Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang vừa gửi Thông điệp Xuân Ất Dậu, dương lịch 2005, chúc mừng Chư Tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại Đức Tăng Ni, và toàn thể Phật tử các giới trong và ngoài nước.

Phần tôi nhân dịp Xuân về, thay mặt Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, xin kính lời Chúc Xuân và Mừng Tuổi quí Liệt vị.

Mấy chục năm nay, tôi và hàng giáo phẩm Giáo hội lâm cảnh tù đày, rồi quản chế khắc khe, nên đã không còn hoàn cảnh thuận duyên, thư thái và tự do như trước năm 1975, để thuận hòa trong truyền thống thăm hỏi chúc Xuân chư liệt vị Nhân sĩ, Trí thức, Văn Nghệ sĩ cùng Đồng bào trong và ngoài nước.

Cầu chúc quí Liệt vị cùng bảo quyến một năm mới an lành, thành công như ý nguyện. Kèm theo lời Chúc Xuân, chúng tôi mong được nói lên đôi lời ưu tư tâm huyết về tiền đồ quê hương Việt. Người ta thường nói : đất có tuần, dân có vận. Vận nước tuần hoàn đi rồi lại lại. Sự tuần hoàn như thế xác định mọi sự trên thế giới đều chuyển biến, thay đổi không ngừng, chẳng có gì tồn tại vĩnh viễn. Đạo Phật chúng tôi gọi lẽ ấy là vô thường. Nhờ vô thường, mà con người có thể tham dự, như tác nhân, để chuyển hóa nghịch cảnh : hạnh phúc có thể tái tạo, tự do có thể thiết lập, nô lệ có thể chấm dứt. Cho nên kẻ sĩ phu theo thời mà thông biến. Lịch sử nước ta trải dài nhiều nghìn năm cho thấy sĩ phu là giới hiểu thời vụ, nhờ hiểu thời vụ mà ra tay chuyển hóa thời đại làm cho quê hương thoát cơn luân hiểm, sinh dân được an lạc.

Sau cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc, các thế quyền đã thử nghiệm những phương thức xã hội khác nhau. Nhưng quảng đại nhân dân chưa no ấm, hạnh phúc. So với các nước láng giềng trong khu vực, thì nước Việt ngày càng tụt hậu. Làm sao đây ? Chúng tôi nghĩ rằng, xưa cũng như nay, đất nước phải cậy nhờ giới sĩ phu đảm đương trách nhiệm. Bảy mươi năm thử nghiệm ý thức hệ Mác-Lê không đem lại cho nhân sinh tự do và no ấm. Nên đầu thập kỷ 90, Liên Xô và toàn bộ phe Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, chấm dứt chiến tranh lạnh phân đôi thế giới.

Nay ta nên làm gì ?

Xu thế địa cầu ngày nay, khắp năm châu nổi lên ý lực hợp tác, chia sẻ, đối thoại, qua phong trào Toàn cầu hóa Kinh tế và Toàn cầu hóa Dân chủ.

Chúng tôi suy nghĩ từ bản thân qua hàng chục năm lưu đày, tù ngục và quản chế, thì thấy không còn con đường nào khác ngoài con đường dân chủ đa nguyên để tái thiết đất nước. Lẽ giản dị là nhiều ý kiến vẫn hơn một ý niệm độc tôn, nhiều thành phần chính kiến, tôn giáo, xã hội, đồng tâm hiệp lực xây dựng quê hương, vẫn hơn một đảng phái độc quyền bao cấp quản lý.

Nhận thức trên đây muốn thành hiện thực, đòi hỏi sự lên tiếng và tham gia của quí vị nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ cùng đồng bào cho tiến trình dân chủ hóa đất nước trong năm Ất Dậu này. Đầu năm 2001, chúng tôi đã có dịp đề xuất Lời Kêu Gọi Cho Dân chủ Việt Nam qua một chương trình 8 điểm. Vì Lời kêu gọi này chúng tôi bị quản chế hành chính hai năm. Hy vọng rằng, tình hình khách quan năm nay, quí vị sẽ có nhiều thuận duyên, may mắn hơn, khi cất tiếng kêu gọi và hoạt động cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Nên không còn chần chờ được nữa.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và trong cương vị Tăng sĩ, chúng tôi không làm chính trị, không tham gia chính trị. Nhưng chúng tôi phải có thái độ chính trị. Thái độ này thể hiện giáo lý nền tảng của đạo Phật, là cứu chúng sinh ra khỏi mọi nạn ách, khổ đau để tạo điều kiện giác ngộ. Hẳn nhiên thái độ ấy tùy thuộc các chính sách của Nhà nước có phục vụ quảng đại quần chúng nhân dân hay không. Trong kinh sách Phật giáo, Đức Phật không làm chính trị, nhưng Ngài không ngừng cố vấn, khuyến thỉnh các vị vua phải có chính sách đúng đắn để phục vụ quần chúng. Ngài cũng có những lời khuyên bảo thích đáng cho quần chúng Phật tử về cung cách làm ăn kinh tế sao cho thu đạt lợi nhuận, gây cơ sở vật chất làm tiền đề cho sự phát triển đời sống tâm linh.

Ở nước ta, các quốc sư Phật giáo dưới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê đã hành hoạt theo gương đức Phật. Gặp lúc biến, các thiền sư cũng tham gia chống ngoại xâm. Đuổi xong giặc, các ngài lại trở về nơi thiền viện lo việc an tâm và giáo hóa.

Gần ba nghìn năm trước, Giáo hội Phật giáo được đức Phật thiết lập trên tứ chúng, bao gồm hai chúng nam nữ xuất gia gọi là tỳ kheo và tỳ kheo ni, và hai chúng tại gia nam nữ Cư sĩ Phật tử. Hai chúng nam nữ Tăng sĩ không tham gia chính trị. Nhưng hai chúng nam nữ Cư sĩ sống giữa xã hội có toàn quyền tham gia và đóng góp trên mọi lĩnh vực của đời sống như kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, chính trị, v.v…

Tuy không làm chính trị, nhưng Giáo hội ủng hộ mọi nỗ lực chính trị nhằm bảo vệ đất nước, bảo vệ truyền thống văn minh nòi giống, âu lo cho mỗi con người được sống đời no ấm, tự do, được hưởng trọn các quyền ghi trong Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam tham gia ký kết tại LHQ từ năm 1982. Và cùng với sự hậu thuẫn tinh thần của Giáo hội, hàng nam nữ Cư sĩ Phật tử tại gia có thể trực tiếp đóng góp vào công cuộc chung với tinh thần lợi tha bình đẳng.

Trong cuộc trả lời phỏng vấn Đài nước ngoài gần đây, tôi có ngỏ lời đề nghị Nhà nước Việt Nam không nên sợ hãi. Chỉ sợ mình không có chính nghĩa, không thật sự có tâm huyết với dân tộc thôi. Chứ sợ gì mất quyền. Đừng sợ có tự do, dân chủ là mình mất quyền. Không đâu. Người dân bây giờ tinh tường lắm. Ai có công, ai thật sự vì dân, vì nước, người ta biết. Hãy xem gương các Đảng cộng sản ở các nước Đông Âu cũ bây giờ đều chấp nhận đa đảng. Thế mà ở Ba Lan, Tiệp Khắc, v.v… dân chúng vẫn có người bỏ phiếu cho đảng Cộng sản, thì có mất gì đâu. Miễn là mọi đảng phái khác cũng được quyền tham dự để cho dân có cơ sở so sánh, lựa chọn, các đảng phái có cơ sở tranh đua phục vụ tổ quốc. Đừng sợ nhiều đảng loạn quyền. Chỉ sợ dân trí bị kìm hãm trong chủ nghĩa ngu dân thôi. Mà đã ngu dân, thì một đảng cũng sinh loạn. Bối cảnh nước ta ngày nay, theo tôi, không cần có vài chục đảng mới thiết lập được dân chủ. Chỉ cần một đảng tả khuynh, một đảng hữu khuynh, một đảng trung hòa đại diện cho các dòng suy nghĩ chính lưu. Tuy nhiên việc này còn tùy thuộc ý nguyện của nhiều người. Nhưng trái lại, phải có nhiều xã hội công dân tự do xuất hiện với mọi quyền con người cơ bản, ắt việc nước sẽ hanh thông, quốc gia sẽ thịnh trị. Điều kiện tiên quyết muốn được như vậy là phải có tự do, dân chủ thật sự để mỗi người và mọi thành phần xã hội được bình đẳng tham gia việc nước. Không sung sướng gì bằng, không hạnh phúc gì bằng, khi những người làm chính trị được chính người dân tin tưởng giao quyền cho.

Đời sống nhân dân các nước dân chủ ở Bắc Âu là mô thức khá hoàn hảo về sự an lạc và tự do của người dân mà chúng ta có thể học hỏi, nghiên cứu, dung hóa, áp dụng vào bối cảnh Việt Nam.

Phải có dân chủ đa nguyên thì mới giải quyết mọi vấn nạn bế tắc từ ba mươi năm qua trên đất nước. Pháp nạn của Giáo hội chúng tôi cũng tùy thuộc công cuộc dân chủ hóa này để được giải trừ.

Nó là giải pháp thay thế, mà muôn dân trông đợi.

Thử trầm tỉnh nghĩ xem, có phải là đảo chính bằng lá phiếu dân chủ vẫn hơn là những cuộc đảo chính bằng bạo loạn ?

Sống trong cảnh huống ngày nay, người có lòng dạ và ưu tư đều bị đẩy vào tâm trạng chờ tức nước vỡ bờ. Thế thì sao không chọn con đường nhân nghĩa của truyền thống cha ông để nước chở thuyền thay vì nước lật thuyền ?

Chẳng nên nghĩ rằng hễ có công an cho đông, nhà tù cho nhiều, và quân đội hùng mạnh là sẽ giữ được quyền bính mãi mãi. Chỗ dựa vững chắc nhất của một chế độ chính trị là lòng dân.

Không là chính trị gia, chúng tôi chỉ có vài ý kiến thô thiển kêu gọi quý vị nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ và đồng bào là những người nhạy cảm với cuộc sống. Làm sao cho một cái gật đầu hay lắc đầu của lực lượng trí tuệ mang yếu tố quyết định thay đổi thời cơ.

Xin quí vị hãy ra tay chặn ngăn các nẻo dữ, dóng lên tiếng chuông cảnh tỉnh, đánh lên hồi trống đại hùng khai mở Đường Lành trong năm Ất Dậu, 2005, này. Đường Lành ấy là con đường dân chủ đa nguyên đưa tới sự ổn định, phát triển và an lạc. An lạc cho quần chúng chỉ có ý nghĩa đích thực khi bảo đảm được quyền tự chủ quốc gia và những quyền tự do, dân chủ căn bản của toàn dân trong sinh hoạt cộng đồng thế giới.

Làm sao cho xuân qua rồi mà hoa vẫn hàm tiếu, người đến bên cây rừng mà chim không kinh sợ bay xa : Xuân khứ hoa hoàn hạm, Nhân lai điểu bất kinh.

Thư đã dài mà ý chưa hết. Chưa gửi đi nhưng lòng đà trông đợi. Xin chư Liệt vị nhận nơi đây lời Chúc Xuân chân thành và niềm hy vọng của tôi.

Phật lịch 2548 – Thanh Minh Thiền viện
Saigon ngày giáp Tết Ất Dậu, 3.2.2005
Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ
*****
Bức Thư Xuân Hồi Đáp Của Nhà Văn Hoàng Tiến
“Kẻ sĩ phải nói những điều ích nước lợi dân”
Viết từ Hà Nội năm 2005 kính gửi Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, đáp ứng bức Thư Chúc Xuân Ất Dậu của Hòa thượng gửi quý vị nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ và đồng bào

Nhà văn Hoàng Tiến
Nhà A 11 Phòng 420
Thanh Xuân Bắc Hà Nội

Kính gửi : Hoà thượng Thích Quảng Ðộ
Viện trưởng Viện Hoá Ðạo GHPGVNTN
Thanh Minh thiền viện
Quận Phú Nhuận TP Hồ Chí Minh.

Trong tiết trời lạnh ẩm của xuân Ất Dậu (2005), tôi nhận được Thư chúc xuân của Hoà thượng do một Phật tử đem tới.

Ðọc thư xong tôi phải thắp hương cám ơn Trời Phật, lòng tưởng nhớ đến đức Trần Nhân tông, một vị vua đời Trần đã sáng lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Một vị vua anh hùng 3 lần đánh thắng giặc Nguyên-Mông, đã từ bỏ ngai vàng, đi tu, nhằm giúp đỡ chúng sinh phát triển tâm linh để nhân dân được no ấm, an lạc, đất nước hưng thịnh dài lâu. Quả thật, thế kỷ 13 sau công nguyên, nước ta đã là một đất nước như thế, giữ khôi nguyên trong khu vực Ðông Nam á lúc bấy giờ, ngẩng cao đầu với thế giới loài người.

Còn nước ta bây giờ thì sao ?

Sau hai cuộc chiến tranh kéo dài gần 30 năm, chống Pháp rồi chống Mỹ, tổn hại biết bao sinh linh, ta đã giành được độc lập thống nhất toàn lãnh thổ. Ta thường tự hào về điều này. Báo chí, sách vở, phim ảnh luôn luôn đề cao nhân dân ta anh hùng. Ðiều đó không sai, nhưng chúng ta đã quá ngây ngất lạm dụng điều đó, để tự bịt mắt bưng tai, rồi thành tụt hậu so với khu vực và thế giới. Nghe kể, ông thủ tướng Thái Lan trong một tiệc chiêu đãi ngoại giao ông thủ tướng Việt Nam, đã có lời đáp từ, đại ý : “Người Thái Lan chúng tôi cũng rất tự hào vì đã tránh được những cuộc đụng độ với những thế lực hùng mạnh trên thế giới.”

Việc này xảy ra đã lâu, vị thủ tướng đáng kính của Việt Nam đã khuất bóng. Nhưng thiết nghĩ nó vẫn còn là bài học mang tính thời sự nóng hổi cho đến hôm nay.

Vậy nên tự hào vừa vừa thôi, anh hùng vừa vừa thôi. Bởi vì chúng ta còn quá nghèo, dân ta còn quá khổ. GDP đầu người Việt Nam cho đến bây giờ mới gần 400 đôla, bằng 1/3 Thái Lan, bằng 1/50 Singapore, bằng 1/70 của Mỹ. Nếu mức tăng trưởng kinh tế 7,5% năm theo như kế hoạch đặt ra, giữ được liên tục, thì cũng phải 20 năm nữa mới đuổi kịp Thái Lan hiện nay. Mà họ có phải dừng lại để chờ ta đâu. Có lẽ lúc này người Việt Nam nên biết hổ thẹn, phải thấy xấu hổ, phải có lúc thấy nhục nhã nữa, khi để đất nước tụt hậu, kém phát triển, tham nhũng triền miên sau chiến tranh đã 30 năm. 30 năm so với lịch sử là ít, nhưng so với một đời người là đã quá dài.

Cái gì làm chúng ta khổ sở như vậy, chậm chạp như vậy ?

Tôi rất tâm đắc với nhận định của Hoà thượng : “70 năm thử nghiệm ý thức hệ Mác Lê không đem lại cho nhân sinh tự do và no ấm, nên đầu thập kỷ 90, Liên Xô và toàn bộ phe xã hội chủ nghĩa ở Ðông Âu sụp đổ, chấm dứt chiến tranh lạnh phân đôi thế giới.” (Trg 1. Thư chúc xuân)

Xu hướng thế giới ngày nay là hội nhập toàn cầu, toàn cầu hoá kinh tế và toàn cầu hoá dân chủ. Vậy Việt Nam ta nên thế nào ?

Trong Thư chúc xuân Hoà thượng viết : “Chúng tôi suy nghĩ từ bản thân qua hàng chục năm lưu đày, tù ngục và quản chế, thì thấy không còn con đường nào khác ngoài con đường dân chủ đa nguyên để tái thiết đất nước. Lẽ giản dị là nhiều ý kiến vẫn hơn một ý niệm độc tôn, nhiều thành phần chính kiến, tôn giáo, xã hội đồng tâm hiệp lực xây dựng quê hương, vẫn hơn một đảng phái độc quyền bao cấp quản lý” (Trg 2. Thư chúc xuân).

Học thuyết Mác Lênin, chuyên chính, độc quyền, thực nghiệm ở Việt Nam đã nhiều chục năm nay, không mang lại kết quả như ý muốn. Trên thực tế, có nhiều điều ngược lại. Vậy ta cũng chẳng nên luyến tiếc nó làm gì. Một vị giáo sư trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào đầu xuân ất Dậu, trong lời chúc mừng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chúc mừng kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam, có đề xuất Ðảng nên tiếp tục đổi mới, đổi tên Ðảng thành Ðảng Việt Nam theo định hướng độc lập tự do, dân chủ công bằng văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, hoà bình hữu nghị … thực hiện ý tưởng của Hồ Chí Minh để lại. (Vì cụ Hồ có nói trong Quốc hội Khoá 1 ngày 31-10-1946 : “Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước nhân dân, trước thế giới : Tôi chỉ có một Ðảng, Ðảng Việt Nam.”)

Trước đó, nhà khoa học Phan Ðình Diệu, trong đề cương phát biểu ý kiến theo yêu cầu của chương trình khoa học KX-10 do Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, cũng đề xuất đến dân chủ đa nguyên và đề nghị đổi tên Ðảng thành Ðảng Xã hội Dân chủ.

Như thế là nhiều ý tưởng tốt đẹp đã gặp gỡ nhau, đã quy vào một mối, tạo tiền đề cho sự phát triển đất nước Việt Nam trên con đường mới. Một năm mới mở đầu với nhiều ý tưởng hết sức tốt đẹp.

Chuyện năm cũ, tháng 10-2004 ông giám đốc công an Hà Nội có mời tôi lên. Trong nhiều ý kiến trao đổi, tôi có nói một ý : “Thày giáo Chu Văn An dạy : “Kẻ sĩ phải nói những điều ích nước lợi dân”. Tôi là người đọc sách, nhận ra sự trì trệ của nước nhà là do thiếu dân chủ, thành độc tài, chuyên chế, gây ra nhiều tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, bè phái, trù úm, cướp đất đai, học vị rởm, vv… Chúng tôi phải lên tiếng chê trách những điều đó. Nếu lãnh đạo nghe ra, sửa chữa những thiếu sót, thì đất nước được phát triển thuận lợi, dân chúng được no đủ. Ðất nước phát triển, dân chúng no đủ, thì ghế của lãnh đạo sẽ vững vàng, không thể lung lay. Chúng tôi già rồi, không nhằm lợi lộc gì ở đây cho cá nhân mình. Còn nếu lãnh đạo không nghe ra, bực tức, muốn bắt bớ, bỏ tù, thậm chí bắn giết, thì chúng tôi chịu. Nhưng vẫn cứ phải nói, phải viết. Cho lương tâm mình được thanh thản. Cũng là noi gương người xưa cả thôi. Không có gì mới. Vì, cũng theo người xưa dạy : “Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa.“Cố gắng để không hổ thẹn với người xưa và không phải đỏ mặt với người sau. Chúng tôi không làm chính trị, không có tham vọng tranh quyền đoạt chức. Sự nghiệp của tôi là văn chương chứ không phải chính trị, nhưng sống phải có thái độ chính trị.”

Nhà thơ Bùi Minh Quốc bạn tôi, giáp tết ất Dậu từ Ðà Lạt ra Hà Nội, có công bố một tài liệu của nhà văn quá cố Nguyễn Minh Châu. Khi anh Châu nằm chữa bệnh chờ chết ở chùa Pháp Hoa (Ðồng Nai) có viết một bức thư cho bạn, trong đó có đoạn : “Nhà văn nước nào cũng vậy, ngoài tiếng nói trong tác phẩm, phải có tiếng nói xã hội, tiếng nói trước công bằng và bất công, trước chiến tranh và hoà bình. Theo tôi, làm một thằng nhà văn Việt Nam vào lúc này mà tìm cách lẩn tránh vấn đề dân chủ là thiếu tư cách, kể cả việc anh núp sau lập luận rằng văn học là cái gì sâu xa để đời …”

Cho nên tôi càng tâm đắc với Thư chúc xuân của hoà thượng :

“Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất và trong cương vị tăng sĩ, chúng tôi không làm chính trị, không tham gia chính trị. Nhưng chúng tôi phải có thái độ chính trị. Thái độ này thể hiện giáo lý nền tảng của đạo Phật, là cứu chúng sinh ra khỏi mọi nạn ách, khổ đau để tạo điều kiện giác ngộ [….] Trong kinh sách Phật giáo, Ðức Phật không làm chính trị, nhưng Ngài không ngừng cố vấn, khuyến thỉnh các vị vua phải có chính sách đúng đắn để phục vụ quần chúng. Ngài cũng có những lời khuyên bảo thích đáng cho quần chúng Phật tử về cung cách làm ăn kinh tế sao cho thu đạt lợi nhuận, gây cơ sở vật chất làm tiền đề cho sự phát triển đời sống tâm linh” (Trg 2. Thư chúc xuân).

Xin được gửi lời hoan hỷ đến với Hoà thượng.

Trong dịp xuân mới chúng tôi mong rằng đường lối chính sách của những nhà lãnh đạo Việt Nam có nhiều đổi mới, để huy động được tài trí, tiền-của của mọi người, mọi giới, không phân biệt chính kiến, tôn giáo trong nước và nhất là với khối Việt kiều hải ngoại, cùng góp sức dựng xây một đất nước Việt Nam dân chủ và phát triển, không hổ danh con cháu các vua Hùng trên bờ biển Thái Bình Dương xanh tươi muôn đời sóng vỗ.

Chúng tôi là những người viết văn, sở nguyện là văn chương, nhưng phải lên tiếng về dân chủ, vì không có dân chủ thì không thể tự do sáng tác văn chương. Cũng như Hoà thượng, là những người tu hành, không có dân chủ không thể có tự do tôn giáo, điều cần yếu để phát triển tâm linh giúp đỡ loài người thoát khỏi khổ đau.

Tấm gương vô úy của Hoà thượng trong hành trình dấn thân cho tự do tôn giáo ở Việt Nam làm mọi người cảm phục. Nỗi sợ hãi là cái thiếu nhất của chúng sinh hiện nay. Chúng sinh thiếu cái gì, ta giúp họ cái đó. Ðạo Phật là đạo của sự giải thoát, giúp con người thoát khỏi sự sợ hãi và được sống cho ra một con người.

Ðọc Thư chúc xuân của Hoà thượng làm sao tôi cứ nhớ tới đức Ðiều-Ngự Giác-Hoàng Trúc-Lâm Ðại-Ðầu-Ðà Trần Nhân tông. Ngài tu đạo nhưng vì dân vì nước. Ðạo của Ngài không xa lánh đời. Nói cách khác Phật sinh ra là vì chúng sinh. Ðạo là vì đời. Ðạo phải cứu đời. Có cái gì rất giống nhau giữa thiền phái Trúc Lâm và Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Cầu mong chư Phật phù-hộ độ-trì cho Hoà thượng sức khoẻ và sự minh triết, để góp phần vào sự hưng thịnh Phật giáo Việt Nam, hưng thịnh đất nước Việt Nam.

Nam mô A di đà Phật !

Thăng Long ngày 22 tháng 2 năm 2005
(Ðinh Sửu nhật. Mạnh Xuân nguyệt. ất Dậu niên)
Hoàng Tiến, nhà văn

Check Also

Bài 1: Cơ sở Quê Mẹ và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế trả lời chung về âm mưu phá hoại cuộc đấu tranh cho Nhân quyền và Tự do Tôn giáo của hai Dư Luận viên Thục Vũ — Ý Dân

  PARIS, ngày 9 tháng Giêng năm 2019 (PTTPGQT & VCHR) — Thời gian qua, …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *