Kính Thưa Anh.
Thơ này xin gởi tới anh, đọc xong chắc anh cũng chẳng vui vẻ gì. Nhưng vì hôm trước gặp nhau ở Từ Hiếu anh có nói : “Mấy Ôn làm thất sách rồi Cầu ơi – Cầu có kế chi không ?” – Tôi có nói : “Mấy Ôn ở tận trên trời, mình ở dưới đất làm sao mà có kế được”. Lúc ấy Tôi nghĩ rằng : đối với quý Ôn của Giáo Hội thì chưa cần sự góp mặt của cư sĩ như tôi. Ðối với “quý Ôn” của Chính Quyền thì tiếng nói của mình như đất gọi trời, khó lòng tới nơi tới chốn. Nhưng đất trời cũng có mối giao hoà qua những nhịp cầu trung gian. Bao năm rồi Tôi vẫn xem Anh là nhịp cầu thân ái đó. Tôi biết Anh là người tâm huyết luôn mong muốn có một sinh hoạt ổn định cho Phật Giáo Tỉnh nhà nói riêng và toàn quốc nói chung. Nhưng Thưa Anh làm sao mà ổn định được khi những người có thẩm quyền không thực tâm giải quyết nguyên nhân của sự bất ổn định mà cứ dùng biện pháp nhất thời để đối phó với triệu chứng của nó – và cứ thế, dùng dằng hai mươi mấy năm trời, để cho ngoại bang lên tiếng phê phán. Ðúng hay sai chưa nói, nhưng thật là hổ thẹn cho con dân Việt Nam chúng ta khi mà chúng ta mở rộng vòng tay với kẻ thù thì được nhưng không dám mở rộng vòng tay với người thân yêu ruột thịt của mình.
Gần đây, Nhà Nước dùng mọi phương tiện truyền thanh, truyền hình, báo chí lên án Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là phản động. Ðể tự vệ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phổ biến các tham luận, các kháng thư lên án Chính Quyền là vi phạm nhân quyền, là vi phạm tự do Tôn Giáo – và cứ thế, cuộc chiến này kéo dài cho đến bao giờ Anh nhỉ.
Do vậy tôi viết bản tham luận này để chúng ta thật tâm phân tích các sự kiện nói trên. Cái gì có thì nói có, cái gì không thì nói không. Tôi viết với tấm lòng của người Phật Tử luôn luôn cố gắng nói năng và hành động theo Ngũ Giới của Ðạo Phật, và mong Anh nghe với tấm lòng của người Quân Tử luôn sống đúng Ngũ Thường của Bậc Phụ Mẫu Chi Dân.
I. Trước hết hãy nói về pháp lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
(3 điều có thật của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất)
1. Sau năm 1975 cho đến bây giờ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có còn tồn tại hay không ? Xin trả lời là Có – Vì sao?
Vì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập năm 1964 là do nguyện vọng của toàn thể Tăng tín đồ Phật Giáo, không phải do sự chỉ đạo của Chính Quyền. Ðó là một Giáo Hội dân lập, không phụ thuộc vào Chính Quyền cho nên nó không thể sụp đổ theo chế độ Việt
Nam Công Hoà của Miền Nam cũ. Nó vẫn tồn tại dưới chế độ XHCN như chúng ta đã thấy.
2. Giáo Hội Phat Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn tồn tai nhưng có hơp pháp không ? Xin trả lời là Có – Vì sao?
Thứ Nhất : Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một Giáo Hội truyền thừa của Lịch Ðại Tổ Sư. Nó thừa kế sự nghiệp của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Nó gắn bó với dân tộc Việt Nam như một thực thể không tách rời – dân tộc Việt Nam còn thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất còn.
Thứ hai : Nhà Nước không hề có một văn bản nào giải thể Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cả.
Thứ Ba : (Và cũng là cụ thể nhất) Vào năm 1981, Giáo Hôi Thống Nhất đã có một pháI đoàn do Hoà Thượng Thiện Siêu cầm đầu tham dự Ðại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội (phái đoàn này thật hay giả xin không nói ở đây) nhưng nó chứng minh rằng cho đến năm 1981 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn tồn tại.
Thứ Tư : Sau năm 1981, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ra đời – trong Hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có nói rõ là các Truyền Thống, Hệ Phái vẫn được tồn tại và phát triển. Trên quan điểm này ta hãy tạm xem Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất như một hệ phái thì tất nhiên nó được tồn tại một cách hợp pháp không thể chối cãi được.
3. Ðã tồn tại hợp pháp nhưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị tê liet hoàn toàn, đến nay phải phục hồi lại có đúng không ? Xin trả là Có – Vì Sao?
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất tê liệt là vì:
Sau năm 1975, một số lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vượt biên ra nước ngoài, số còn laị thì bị chết trong tù như cố Hòa thượng Thiện Minh, bị giam cầm như Hoà Thượng Quảng Ðộ, bị lưu đày như Hoà Thượng Huyền Quang. Cái thời mới giải phóng, đất nước còn hỗn mang, luật lệ chưa rõ ràng, nghi ai bắt nấy thì không trách làm gì nhưng khi đất nước đã ổn định rồi mà những việc giam giữ lưu đày không được giải quyết rõ ràng thì thật là đáng trách.
Thêm vào đó cơ sở vật chất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị chiếm dụng hoàn toàn. Tại miền Nam Việt Nam hầu hết chùa chiền, tự viện, trường học. đều là của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, thế mà một sớm một chiều bảng hiệu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đều bị hạ xuống để treo bảng hiệu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam lên mà chẳng có ai đồng ý, chẳng có ai bàn giao. Theo luật pháp bây giờ, nếu nói là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chiếm dụng tài sản XHCN hay tài sản công dân cũng không phải là quá đáng.
Qua ba điểm phân tích trên ta thấy Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có đầy đủ yếu tố để đòi lại những gì mình đã mất.
II. Vậy Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã đòi lại quyền sống của mình như thế nào mà lại bị Chính Quyền lên án là phản động ?
(3 điều không có của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất)
1. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có nhan tiền của nước ngoài để làm tay sai cho họ không ? Xin trả lời là Không – Vì sao?
Chẳng có nước ngoài nào mà dại dột đưa tiền cho Giáo Hội Thống Nhất để làm tay sai cho họ cả vì những vị lãnh đạo Giáo Hội Thống Nhất người thì chết, người thì bị tù, người thì bị lưu đày, cơ sở hoạt động thì bị chiếm đoạt, còn lại một vài cơ sở thì bị theo dõi chặt chẽ thì thử hỏi Giáo Hội Thống Nhất làm được cái gì cho họ mà họ phải mất công tốn của.
Qua các lần thiên tai bão lụt, quý vị lãnh đạo Giáo Hội Thống Nhất có tổ chức cứu trợ. Nhưng đó là tiền của Phật Tử Việt Nam ở nước ngoài cảm thương người trong nước bị hoạn nạn mà gởi về qua trung gian của các Ngài để tìm mọi cách chuyển cho người cùng khổ chứ sao lại gọi là tiền của nước ngoài. Tiền ấy là tiền nhường cơm xẻ áo chứ không phải để nuôi sống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Vừa qua ông cán bộ Mặt Trận Lam Sơn đã từng đi khắp nơi vu cáo, xuyên tạc việc Phật Tử chúng tôi nhận tiền nước ngoài. Tôi đã nói thẳng với Ông Nguyễn Ðình Ngộ, lúc ấy là Chủ Tịch Mặt Trận : Anh hãy dạy cán bộ của Anh lại, đừng để họ nói bậy gây chia rẽ trái với chủ trương của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Ông Nguyễn Ðình Ngộ đã mời một số Huynh trưởng Gia Ðình Phật tử như Anh Trần Nguyên Vũ, Anh Lê Văn Tranh, Anh Trương Diên Hiếu. đến để xin lỗi. Sự kiện này cũng đủ để chứng minh luận điệu trên là xuyên tạc.
2. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có cấu kết với các thế lực thù địch nước ngoài không? Xin trả lời là Không – Vì sao ?
Hãy nhìn vào các nước láng giềng như Thái Lan, Malaysia, Singapore. có nước nào cứ luôn luôn la làng chửi bới các thế lực thù địch nước ngoài như mình không ? Sao nước mình lại lắm thù địch đến thế. Tôi chẳng thấy thế lực thù địch nào cả, nhất là các thế lực ấy cấu kết với Giáo Hội Thống Nhất để chống phá Nhà Nước thì lại càng không có.
Thế lực ấy là Thầy Mãn Giác, Thầy Hộ Giác, là ông Võ Văn Ái ư ? Nên nhớ rằng quý vị nói trên là Giáo phẩm của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đang lưu vong ở nước ngoài. Họ nhìn thấy Giáo Hội Thống Nhất bị bức tử, họ lợi dụng sự tự do ở các nước ngoài để lên tiếng vận động các cơ quan quyền lực trên thế giới lên tiếng giúp đỡ, ủng hộ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là chuyện tất nhiên.
Thế lực thù địch là Quốc hội Hoa Kỳ, là Nghị Viện Châu Âu ư? Nhà Nước ta thường ca tụng mối bang giao tốt đẹp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam thì không có lý do nào mà cơ quan quyền lực cao nhất của họ là Quốc Hội lại thù địch với Việt Nam cả. Cho nên cấp trên nói thì cấp dưới nói theo. Chính Phủ nói thì Phật Giáo Việt Nam nói theo, thật nguy hiểm cho nền ngoại giao của đất nước chúng ta.
3. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức Ðai hội bất thường tại Tu viện Nguyên Thiều – Tỉnh Bình Ðịnh và tiếp tục tại Úc Ðại Lợi có gì sai trái không ? Xin trả lời là Không. – Vì sao?
Qua các tư liệu, chúng ta thấy rằng Ðại Hội được tổ chức rất trang nghiêm và trọng thể đúng theo truyền thống của Phật Giáo Việt Nam. Do đó trong hai ngày diễn ra Ðại Hội, Chính Quyền không có lý do gì để can thiệp được cả. Nhưng khi Ðại Hội được tiếp tục triển khai tại Úc thì Nhà Nước đã lên tiếng cho rằng quý Ôn đã tiết lộ bí mật quốc gia, đã cấu kết với thế lực thù địch nước ngoài nên đã ra lệnh quản thúc hầu hết các vị Giáo Phẩm của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại quốc nội. Tại sao như vậy :
Ôn Quảng Ðộ vừa mới ra tù, Ôn Huyền Quang đang bị lưu đày, Ôn Tuệ Sĩ thường xuyên bị theo dõi. và quý Ôn cũng chẳng phải là cán bộ cao cấp của Nhà Nước thì làm gì có bí mật quốc gia mà tiết lộ.
Ðại Hội tiếp tục tại Úc là vì quý Ôn dự liệu tình huống xấu nhất có thể xảy ra: khi mà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại quốc nội không có một mảnh đất cắm dùi thì phải nhờ vào một quốc độ khác là chuyện tất nhiên, nhất là Giáo Hội Thống Nhất có cơ sở ở nước ngoài (cơ sở này đã có từ trước năm 1975). Cũng như khi nước Việt Nam ta bị thực dân thống trị thì Ðại Hội Ðảng Công Sản Việt Nam diễn ra tại Ma Cao, Quảng Châu. thì có gì là lạ đâu.
Nhưng có lẽ Nhà Nước đã giật mình trước sự xuất hiện của những lá cờ vàng ba sọc đỏ tại Ðại Hội ở Úc nên vội vã lên án Giáo Hội Thống Nhất là phản động, là cấu kết với thế lực thù địch nước ngoài chăng?
Ở đây với tư cách là một Phật tử, một công dân của nước Công Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tôi xin bày tỏ quan điểm của mình như sau :
Năm 1954, với Hiệp định Genève chia đôi đất nước, một triệu người miền Bắc di cư vào Nam. Khi ra đi họ mang theo hình ảnh quê hương của mình qua biểu tượng là ngôi chùa Một Cột. Cho nên họ đã cùng nhau góp sức dựng lại ngôi chùa ấy tại miền Nam Việt Nam. Mỗi lần lễ lượt, tết nhất họ chiêm ngưỡng để nhớ về quê hương miền Bắc của mình chứ đâu phải để nhớ về Chính Quyền miền Bắc.
– Thì năm 1975 cũng thế, hơn một triệu người vượt biển ra nước ngoài. Khi ra đi hình bóng tổ quốc mà họ mang theo chính là lá cờ vàng ba sọc đỏ vì hầu hết họ là người của miền Nam Việt Nam cơ mà. Và cứ thế mỗi lần lễ lượt, tết nhất họ cắm cờ lên để tưởng nhớ tổ quốc của mình chứ không phải để tưởng nhớ Chính Phủ Việt Nam Cọng Hoà của Nguyễn Văn Thiệu. Như vậy thật là đáng thương chứ đâu phải là đáng trách. Ðáng trách là đã 30 năm qua rồi mà Nhà Nước không có một chính sách cởi mở và tiến bộ để thu hút số người này về với “chính nghĩa” để họ chấp nhận lá cờ đỏ sao vàng mà quên dần đi lá cờ vàng ba sọc đỏ. Ðáng trách là Nhà Nước có Ban Dân Vận Trung Ương, có Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, có các tổ chức Kiều Vận của Ðảng và Nhà Nước mà đã không vận động được Viêt kiều chấp nhận chế độ để họ có những đóng góp thiết thực cho tổ quốc mà cứ xem họ là thù địch thì thật là tội nghiệp.
III. Bây giờ ta hãy nói đến thực chất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hiện nay :
(3 điều có thật của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam)
1. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hien tai có phải là Giáo Hội của Nhà Nước không ? Xin trả lời là Có – Vì sao?
Năm 1981, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ra đời không phải do tâm nguyện của toàn thể Tăng tín đồ của Phật Giáo Việt Nam mà hoàn toàn do sự chỉ đạo của Nhà Nước : nhân sự do Nhà Nước sắp xếp, địa điểm tổ chức do Nhà Nước chỉ định, kinh phí tổ chức do Nhà Nước đài thọ. Giáo Hội ấy đã lấy phương châm là Ðạo Pháp – Dân Tộc và XHCN để làm mục tiêu hoạt động thì tất nhiên Giáo Hội ấy là của Nhà Nước rồi.
Ngày nay, theo nghị định 26 của Thủ Tướng Chính Phủ : muốn lên Hoà Thượng, Thượng Toạ thì phải được Thủ Tướng phê chuẩn. Và theo văn thư số 09 ngày 27/06/2002 của Ban Trị sự Gíao hội Phật giáo Việt Nam thì các Ban Hộ Tự phải nạp danh sách cho Chính Quyền để được xác nhận. Như vậy là cán bộ Phật Giáo từ thượng tầng cho đến hạ tầng đều do Nhà Nước lựa chọn cả rồi.
Ở đây Tôi cũng xin nêu lên một việc để chứng minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là của Nhà Nước:
Vừa qua thầy Tuệ Sĩ công bố hai bạch thư của Hoà Thượng Ðôn Hậu. Một cái gởi cho Hoà Thượng Trí Thủ, một cái gởi cho Hoà Thượng Ðức Nhuận. Nội dung hai bức thư này là Ngài Ðôn Hậu từ chối không nhận chức vụ Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Tôi xin nói rõ thêm : hai bức thư này Hoà Thượng Ðôn Hậu sai Anh Nguyễn Sĩ Thiều (Trưởng Ban Hướng Dẫn của chúng tôi) mang vào Sài Gòn trình lên Hoà Thượng Trí Thủ. Ngài Ðôn Hậu cho Anh Thiều 100 đồng tiền Bắc để đi xe tàu. Anh Thiều đã cẩn thận để hai cái thư ấy vào trong một cái áo giáp của lính. Ngày nay cái áo giáp ấy Anh vẫn cất kỹ để làm kỷ niệm.
Cũng trong năm 1981, trong ngày kỵ tại chùa Tây Thiên, Anh Nguyễn Xuân Quyền (Huynh trưởng Cấp Dũng) đã trình bày một số ý kiến về sinh hoạt Phật Giáo. Ôn Ðôn Hậu đã nói giữa đại chúng : “Ý kiến của Anh rất hay nhưng Anh nên nhớ Giáo Hội này không phải Giáo Hội của mình”. Anh Quyền về viết lại thành bút ký giao cho Tôi, Tôi vẫn còn giữ gìn cẩn thận.
2. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có phải là một tổ chức chính trị không ? Xin trả lời là Có – Vì sao?
Vì trong Hiến Chương của Giáo Hội đã định rõ là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trực thuộc Ban Tôn Giáo Chính Phủ và Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Mà Ban Tôn Giáo Chính Phủ và Mặt Trận Tổ Quốc là hai tổ chức chính trị của Ðảng và Nhà Nước thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đương nhiên cũng là một tổ chức chính trị rồi.
3. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có phải là mot ban ngành của Nhà Nước không ? Xin trả lời là Có – Vì sao?
Vì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tự đặt mình trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc và Ban Tôn Giáo Chính Phủ. Cho nên Giáo Hội đã tự xem mình như là một ban ngành
của Nhà Nước :
Rõ ràng nhất là qua các việc làm của Giáo Hội gần như rập khuôn với Nhà Nước. Khi Nhà Nước chủ trương VAC thì tại các lễ lượt, các buổi thuyết giảng Giáo Hội cũng hô hào Vườn – Ao – Chuồng. Khi Nhà Nước chủ trương kế hoạch hoá gia đình thì Giáo Hội cũng tổ chức thuyết giảng về kế hoạch hoá gia đình. Khi Nhà Nước lên án Dự luật Nhân quyền của Quốc Hội Hoa Kỳ thì Giáo Hội cũng tổ chức mitting lên án theo.
Ta phải hiểu rằng tinh thần đạo Phật là tinh thần nhập thể, tức là phải tạo cho mình một căn bản tu chứng. Tinh thần nhập thể luôn luôn đi đôi với tinh thần nhập thế tức là vận động xã hội sống theo Phật Pháp mà chúng ta thường nói là thực hiện Bồ Ðề Tâm hay thực hành Bồ Tát Ðạo. Nhưng Phật Giáo không thể vận động Xã Hội theo kiểu thế gian được, vì để đạt được mục đích, thế gian bất chấp phương tiện, có thể là phương tiện xảo trá tàn ác. Ðạo Phật không phải thế, để đạt được mục đích Ðạo Phật cũng dùng phương tiện nhưng đó là phương tiện của từ bi.
Vì không có một căn bản tu chứng nên quý thầy trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã lầm phương tiện thế gian với phương tiện của Phật Giáo, ví dụ : để kế hoạch hoá gia đình, các thầy phải dạy Phật tử thực hành giới không tà dâm trong ngũ giới mà Phật đã dạy để đoạn trừ căn nguyên của cái bệnh dâm dục chứ không phải là dùng bao cao su. Vì bao cao su thì ngăn chận được đẻ nhiều, ngăn chận được HIV nhưng đó cũng là cái bùa hộ thân cho những kẻ dâm ô, có bùa hộ thân rồi họ cứ hành dâm thoải mái thì làm sao mà ngăn chận được tệ nạn mãi dâm lan tràn. Chỉ có ban ngành của Nhà Nước mới làm như vậy chứ một Tôn Giáo thì không thể làm như vậy được.
IV. Nhà Nước đối xử với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam như thế nào?
(Ba điều không của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam)
1. Nhà Nước có xem Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là một Giáo Hội không ? Xin trả lời là Không – Vì sao?
Như trên tôi đã nói : Giáo Hội tự xem mình như một ban ngành của Nhà Nước thì Nhà Nước cũng xem Giáo Hội như là một ban ngành của mình. Cụ thể nhất là việc trao huân chương cho quý thầy trong Giáo Hội. Cán bộ Chính Quyền là công chức Nhà Nước, nếu có công thì Nhà Nước trao huân chương là đúng rồi. Nhưng quý thầy là những vị lãnh đạo tinh thần không thể xem như cán bộ Nhà Nước được. Cho nên trao huân chương cho quý thầy là đồng hoá quý thầy như là cán bộ Nhà Nước. Qua việc làm này ta thấy Nhà Nước đã thế tục hoá quý thầy mất rồi. Quý thầy nhận huân chương thì không còn là Bậc xuất trần thượng sĩ nữa, là sai với Chánh Pháp bởi vì tinh thần Phật Giáo là Vô Ngã để hướng tới Niết Bàn. Hãy nghe hoà thượng Thiện Siêu nói: “cửa Niết Bàn rất hẹp, như đường tơ kẽ tóc nên ta không thể mang theo một hành lý nào mà hy vọng vào cửa Niết Bàn được cả. Cái thân đã không mang theo được mà ý niệm về cái tôi cái ta cũng không thể mang theo được”. Trao huân chương, nhận huân chương là làm cho cái tôi cái ta trong quý thầy to lớn thêm lên thì làm sao mà chui cho lọt qua cửa Niết Bàn được. Vì thế mà đã có nhiều vị không nhận, ngay tại Thừa Thiên của chúng ta, cố Hoà Thượng Trúc Lâm không nhận và hiện tại Hoà Thượng Thích Ðức Phương (Trưởng Ban Trị Sự) cũng không nhận các huy chương này.
Vì xem Giáo Hội là ban ngành của mình nên Chính Quyền làm theo cách chỉ đạo sự vụ (lời của Giáo Sư Minh Chi). Hãy xem cán bộ Chính Quyền không thiếu mặt trong bất cứ một buổi họp, một buổi lễ lượt, một giới đàn nào. Việc này làm cho một số Tỳ Kheo không thành tựu Giới Pháp mà mình được lãnh thọ. Vì sao ? Vì giới trường là nơi thanh tịnh, Phật Tử tham dự phải giữ thân tâm thanh tịnh. Cán bộ Chính Quyền không phải Phật Tử thì họ đâu có giữ giới thanh tịnh. Tối hôm qua họ còn ngủ với vợ, họ còn dự buổi nhậu với rượu bia nem chả, sáng hôm nay họ ngồi trên bục Chủ Toạ của buổi lễ Phật làm cho không gian buổi lễ mất thanh tịnh theo. Ðiều này làm cho bao nhiêu Phật Tử phải đau lòng.
2. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có hoạt động đúng Chánh Pháp không ? Xin trả lời là Không – Vì sao?
Cứu cánh của Ðạo Phật là sự tu chứng, giác ngộ. Sự tu chứng ấy chỉ có giới luật Phật mới thẩm định được. Ngày nay, quý thầy trong Giáo Hội nạp Tăng tịch cho Nhà Nước để được phê chuẩn lên Hoà Thượng, Thượng Toạ là sai với Chánh Pháp rồi.
Các tu viện của Phật Giáo cũng thế. Các Tăng sinh học là cầu tu chứng, giải thoát. Học giáo pháp thanh tịnh của chư Phật mà còn chưa giải thoát nổi, bây giờ lại học kèm với chủ thuyết Mác Lênin là một chủ thuyết chính trị, chủ trương đấu tranh giai cấp thì làm sao mà giải thoát được.
3. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có phải là Giáo Hội duy nhất và hợp pháp không ? Xin trả lời Không – Vì sao?
Chỉ nhìn tại Thừa Thiên thôi là đã thấy không phải rồi. Thừa Thiên chúng ta có khoảng một triệu dân, trong đó 80% theo đạo Phật, như vậy là có 800.000 phật tử. Hiện nay Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quản lý 400 khuôn hội trên toàn tỉnh (do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để lại chứ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chẳng lập thêm được khuôn hội nào). Hiện nay, bình quân mỗi khuôn hội là 100 đạo hữu, nhân lên với 400 khuôn hội vị chi là 40.000 người. Vậy thì 760.000 phật tử còn lại ở đâu ? sinh hoạt với ai ? Một giáo hội mà chỉ đại diện cho một thiểu số như thế thì sao gọi là hợp Pháp được. Lại càng không thể là duy nhất được.
Hãy nhìn đất nước chúng ta với 80 triệu dân, do Ðảng Công Sản lãnh đạo. Mà Ðảng thì chỉ có 2 triệu Ðảng viên. Vậy thì có phải ai cũng phải vào Ðảng thì mới được xem là công dân hợp pháp của nước Công Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đâu. Phật Giáo cũng thế, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam lãnh đạo nhưng có phải ai cũng phải vào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam mới được gọi là Phật tử hợp pháp. Cho nên không ai có quyền xem 760.000 phật tử kia là bất hợp pháp. Ðã không bất hợp pháp thì họ phải được sinh hoạt tự do ngoài Giáo Hội, vậy Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam không thể là hợp pháp và duy nhất được.
V. Hãy nói về tự do Tôn Giáo và tự do ngôn luận tại Việt Nam :
(Hai điều căn bản mà Nhà Nước cần phải xét lại)
1. Việt Nam có tự do Tôn Giáo nhưng tự do ấy có được tôn trọng không ? Xin trả lời là Không – Vì Sao ?
Nhiều người đã nói rằng, tự do Tôn Giáo tại Việt Nam được tôn trọng triệt để khi họ nhìn thấy nhiều ngôi chùa to lớn được xây dựng, nhiều trường học Phật Giáo được tổ chức, nhiều đạo tràng đông đúc, nhiều lễ lượt rực rỡ, và mỗi lần lễ lượt được Chính Quyền thăm viếng, trao quà. Nhưng đó là các tổ chức thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Còn những ai không theo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thì sao? Chùa chiền hư nát, không được sữa chữa, xin phép thì Chính Quyền đổ cho Giáo Hội, Giáo Hội đừa cho Chính Quyền như khuôn hội Mai Vĩnh, 7 năm trời không sửa nổi một ngôi chùa. Phật tử sinh hoạt thì bị ngăn cấm : không theo Giáo Hội thì bị đuổi ra khỏi chùa như Gia Ðình Phật tử Cát Tường, Gia Ðình Phật tử Thuỷ An. và gần đây nhất là trong dịp rằm tháng 7, các em Gia Ðình Phật tử Phú Cát hân hoan đến cắm trại mừng lễ Vu Lan. Khi đến nơi ban Hộ tự ra lệnh ai theo Giáo Hội thì được ở lại cắm trại, văn nghệ, ai không theo thì bước ra khỏi chùa. Hơn 40 đoàn sinh và huynh trưởng đã từng gắn bó nơi đây, đã lặng lẽ dắt nhau ra khỏi chùa tìm về sinh hoạt với Gia Ðình Phật tử Lương Văn. Tại chùa Lương Văn, các em cũng bị Chính Quyền địa phương xua đuổi, trong đêm tăm tối các em đã dắt díu nhau về nhà chị liên đoàn trưởng nấu cơm ăn, ngủ lại với nhau một đêm rồi ngày rằm ngậm ngùi chia tay ai về nhà nấy. Có cảnh nào đau lòng hơn không Anh nhỉ?
Rồi các Ban Ðại Diện Giáo Hội thường xuyên kết hợp với Mặt trận đến các địa phương nói là vận động đăng ký theo Giáo Hội nhưng thực chất là hăm doạ (nếu không hăm doạ thì Chính Quyền đi theo làm gì). Tạo sự hoang mang lo sợ cho cá nhân và gia đình của đoàn viên Gia Ðình Phật tử cũng như các đạo hữu. Ðây cũng là nguyên nhân của sự bất hoà tại các Niệm Phật đường : người sợ thì muốn đăng ký cho yên thân, người thuỷ chung thì cương quyết giữ nề nếp.
Nếu ngoài đời làm cho gia đình người khác bất hoà cha từ con, vợ bỏ chồng là một tội ác thì trong đạo cũng thế. Cái chủ trương đăng ký làm cho bác cháu, anh em bao nhiêu năm hoà thuận dưới một mái chùa bỗng dưng trở thành ly tán, chống đối lẫn nhau. Chủ trương ấy thật là tàn nhẫn.
Có nhiều nơi đám tang, chẩn tế, kỵ giỗ Chính Quyền buộc phải mời thầy của Giáo Hội, không được mời thầy của Tăng đoàn đã làm không biết bao nhiêu người bất mãn.
Chúng ta hãy đọc lại điều 2 của nghị đinh 26 của Thủ Tướng Chính Phủ:
“Nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử vì lý do Tôn Giáo tín ngưỡng”. Nhưng Chính Quyền đã phân biệt đối xử rất trầm trọng với những người theo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và những người không theo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam như Tôi đã nói ở trên. Cho nên Chính Quyền đã vi phạm nghị định 26 chứ không phải là Phật Tử chúng tôi.
2. Việt Nam có tự do ngôn luận nhưng tự do ấy có được tôn trọng không ? Xin trả lời là Không – Vì sao ?
Tôi không phân tích dài dòng mà chỉ nói những sự kiện gần đây thôi.
Ông Nguyễn Văn Mễ, vừa Là Ðại Biểu Quốc Hội, vừa là Phó Bí Thư Tỉnh Uỷ, vừa là Chủ Tịch Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Thừa Thiên Huế. Khi Ông phát biểu tại Diễn Ðàn Quốc Hội, lên án việc phục hồi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thì đài truyền hình ngang nhiên cắt xén một số từ làm cho lời phát biểu của Ông trở thành vô nghĩa và buồn cười. Thử hỏi một vị như ông Mễ mà lời nói còn bị bóp méo huống chi là dân thường. Vừa qua Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tỉnh Thừa Thiên Huế và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tỉnh Quãng Trị họp mitting lên án đạo luật HR 427 của Nghị Viện Hoa Kỳ mà chỉ thấy cái miệng quý thầy mấp máy còn lời nói thì do xướng ngôn viên đài truyền hình nói thay cả. Ai biết quý thầy đã nói gì. Ðiển hình nhất Phật Giáo hiện nay chỉ có một tờ báo duy nhất là báo “Giác Ngộ” mà ban biên tập lại do Uỷ Ban Nhân Dân TP Hồ Chí Minh bổ nhiệm thì tờ báo ấy có phải là tờ báo Phật Giáo nữa không? (theo báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 3 của Giáo Hội Phật Giáo TP Hồ Chí Minh trang 32).
VI. Xin bày tỏ tâm tư của Tôi
(Hai điều cần thiết đối với một người Huynh trưởng Gia Ðình Phật tử)
1. Tại sao Tôi trung thành với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ?
Hãy nhìn lại ngàn xưa, không có một chế độ nào tự hào là đã giáo dục được quần chúng. Cho nên cha ông ta đã khôn ngoan dùng bàn tay Tôn Giáo để ổn định xã hội. Ngôi đình là bàn tay của Khổng giáo, đền miếu là bàn tay của Lão giáo, chùa chiền là bàn tay của Phật giáo. Ngày nay với chủ nghĩa duy vật biện chứng, bàn tay Tôn Giáo đã trở thành què quặt thì tệ nạn phát sinh làm sao mà tránh khỏi. Vì thế Tôi mong ước Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được phục hồi để góp phần cải tạo xã hội theo tinh thần từ bi của chư Phật.
Trước năm 1975, tại miền Nam Việt Nam có hơn 500.000 lính Mỹ và hơn 1 triệu lính Việt, do đó không có một tệ nạn nào mà miền Nam không có, từ đĩ điếm, xì ke ma tuý đến phim ảnh khiêu dâm để phục vụ cho đạo quân viễn chinh ấy và cho cả lính Việt xa nhà, xa vợ con, đói khổ trong rừng sâu nước độc khi trở về thành phố. Nhưng các thế hệ thanh thiếu niên miền Nam thời ấy có mấy ai hư hỏng đâu. Vì sao thế, đó chính là nhờ bàn tay của Tôn Giáo. Từ Tổng Thống, Bộ Trưởng cho đến kẻ ăn mày ai cũng có đạo. Mà đã giữ đạo một cách chân chính thì làm sao mà sa vào tệ nạn được, bởi vì người có đạo ai cũng sợ nhân quả. Công giáo thì sợ không lên được Thiên Ðường. Phật giáo thì sợ đoạ xuống địa ngục. Phải nói rằng sự giáo dục Tinh Thần Tôn Giáo ấy có công lao rất lớn của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Từ thành thị cho đến thôn quê hay hang cùng ngõ hẽm ở đâu cũng có khuôn hội, cũng có Gia Ðình Phật tử, có trường Bồ Ðề, có học sinh Phật Tử, có hướng đạo Phật Giáo. Từ cụ già 90 tuổi đến đứa con nít lên ba đều xem là mái chùa là mái nhà của họ. Ðây chính là cái bình phong để ngăn ngừa mọi tệ nạn phát sinh. Ngày nay đến chùa mà phập phồng lo sợ. Con số mỗi khuôn hội khoảng 100 Bác như Tôi nói ở trên là quá nhiều rồi đấy.
Gần đây có nhiều bài viết từ bưu điện gởi đến cho Tôi như bài của ông Trần Chung Ngọc hết lời ca tụng Chính Sách Tôn Giáo của Nhà Nước, ca tụng thành công của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nhưng kết luận Ông cũng hô hào “hãy giúp cho Phật Giáo Việt Nam độc lập với Chính Quyền.. hãy giải phóng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ra khỏi Mặt trận”. Bài của ông Trần Thanh Hải cũng thế, vừa ca tụng Nhà Nước, vừa ca tụng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nhưng kết luận cũng kêu gọi “phải có một tổ chức Phật Giáo lành mạnh hơn.. phải cải tổ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chứ cái Giáo Hội như ghế một chân, lão hoá như hiện nay thì chẳng làm được gì” xem thế thì đủ rõ vai trò của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam như thế nào rồi.
2. Tại sao tôi trung thành với Gia Ðình Phật Tử Việt Nam ?
Gia Ðình Phật tử Việt Nam mà Tôi nói ở đây là Gia Ðình Phật tử truyền thống sinh hoạt theo nội quy đã được ban hành năm 1964 và tu chỉnh lần cuối cùng năm 1973.
Hãy nhìn lại xã hội chúng ta hiện nay, không có ngày nào là báo đài không báo động, kêu cứu về tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mãi dâm, rượu chè cờ bạc. Nhưng chúng ta thấy có còn một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên nào được hoạt động không ? Hướng Ðạo đã chết, Thanh Sinh Công, Hùng Tâm Dũng Chí, Thanh Niên Thiện Chí cũng chẳng còn. Nhà Nước luôn luôn đề cao vai trò của đoàn Thanh Niên Công Sản và Ðội Thiếu Niên Tiền Phong, nhưng thực chất đây không phải là các tổ chức giáo dục thanh thiếu niên mà đây là các tổ chức chính trị nhằm đào tạo người thừa kế cho Ðảng. Bằng chứng là chỉ có các em có lý lịch tốt mới được vào đoàn vào đội. Còn các em có lý lịch xấu, ta bà, bụi đời thì chẳng bao giờ được vào các tổ chức này cả. Mà chính các em xấu, ta bà, bụi đời là các em cần được giáo dục nhất. Không có cơ sở giáo dục để ngăn chận tệ nạn, đợi đến khi các em phạm pháp bắt vào trại giáo dưỡng xem như xong chuyện. Ngày nay trên đất nước chúng ta điều đáng buồn nhất là tệ nạn thì đầy dẫy mà xin mở một quán cà phê đèn mờ, một quán karaoke, một quán nhậu thì dễ mà xin thành lập một tổ chức sinh hoạt thanh niên, một trường Bồ Ðề. thì chẳng bao giờ được chấp nhận.
Bởi thế Gia Ðình Phật tử Việt Nam mở rộng vòng tay với tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ lớn bé, tôt xấu, giàu nghèo vận động mọi tầng lớp Thanh Thiếu Nhi sống theo hạnh từ bi của Phật Giáo. Cho nên ngày nào xã hội còn cần đến chúng tôi thì ngày ấy chúng tôi còn sinh hoạt. Sự sinh hoạt ấy, đôi khi cũng làm phiền lòng các anh không ít nhưng xin các anh hoan hỷ cho. Ở đây chúng tôi cũng xin nói rõ là chúng tôi không tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nên chúng tôi không chấp nhận Phân Ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Tử hiện tại và xem đó như là một quái thai của Gia Ðình Phật tử. Vì sao :
– Vì đó là một tổ chức không theo nội quy và quy chế Gia Ðình Phật tử Việt Nam.
– Vì đó là một tổ chức “phi tổ chức” vì nó không thực hiện được cái quyền dân chủ tối thiểu của một đoàn thể: không có đại hội để hoạch định chương trình sinh hoạt, không có bầu cử các cấp lãnh đạo mà chỉ do các Ban Trị Sự áp đặt, ưa ai thì mời nấy, không ưa thì gạt ra (xem nội quy của Phân ban thì rõ).
– Vì ưa ai thì mời nấy cho nên Ban Trị Sự đã mời những người không phải Huynh trưởng, những người không giữ giới luật Phật giáo rồi phong Cấp Tấn cho họ để lãnh đạo Gia Ðình Phật tử. Cụ thể nhất là trong trại Vạn Hạnh vừa qua tại Quảng Trị, Phân Ban Hướng Dẫn tham dự mà đem theo bia bọt, nem chả (nem chả bằng thịt heo đàng hoàng) để nhậu. Nhậu như vậy là vi phạm giới luật. Bỏ trại sinh đi ngủ khách sạn là vi phạm kỷ luật. Những điều trên đây Huynh trưởng của Tôi chứng kiến tận mắt. Vậy mà Ông Nga (Công An Huyện Phú Vang) mời Huynh trưởng Ngô Ðức Tiến đến tại trụ sở Công An để làm việc đã buộc Anh Tiến không được nói xấu Phân Ban. Thật là hết chỗ nói.
VII. Kết luận:
Một giải pháp cho Phật Giáo Việt Nam
(Chín điểm cơ bản để giải quyết vấn đề Phật Giáo Việt Nam)
Qua những phân tích trên, muốn ổn định Phật Giáo Việt Nam theo Tôi chỉ có một con đường :
1. Hãy đưa Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và Chư Vị Tôn Túc Lãnh Ðạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra toà. Trước pháp luật nghiêm minh của Nhà Nước, trước sự giám sát của Pháp Luật Quốc Tế, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sẽ biện minh cho sự tồn tại hợp pháp của chính mình.
2. Nếu đưa ra toà mà cảm thấy hết tình hết nghĩa, cạn tàu ráo máng thì phải có một cuộc đối thoại trực tiếp và công khai giữa Chính Phủ và Lãnh Ðạo Giáo Hội Thống Nhất. Nếu Giáo Hội chứng minh được Pháp Lý của mình thì Nhà Nước phải công nhận sự tồn tại hợp pháp của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội không chứng minh được thì Giáo Hội đành chịu chết.
3. Khi Giáo Hội Thống Nhất chứng minh được sự tồn tại hợp pháp của mình rồi thì Giáo Hội Thống Nhất phải được sinh hoạt tự do. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam phải trả lại toàn bộ tài sản đã chiếm đoạt cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
4. Bên cạnh đó Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do Nhà Nước lập ra thì cứ vẫn tồn tại, chẳng có gì phải suy tính.
5. Như vậy chúng ta có hai Giáo Hội song hành : một Giáo Hội quốc lập và một Giáo Hội dân lập.
6. Ðừng sợ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thừa thắng xông lên để giành địa vị độc tôn của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hiện nay. Giáo Hội Thống Nhất sẽ không làm như vậy, như trước năm 1975, Giáo Hội vẫn tôn trọng các tổ chức ngoài Giáo Hội như Hội Phật Học Nam Việt,. Cũng đừng sợ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam bắt ép tín đồ phải vào Giáo Hội vì việc này Giáo Hội đã từng làm nhưng không thành công dù có sự hỗ trợ tích cực của Nhà Nước .
7. Rồi sao nữa ? Rồi Anh sẽ thấy : Chư Vị Tôn Túc của hai Giáo Hội sẽ tìm lại với nhau để có một tiếng nói chung của Phật Giáo Việt Nam như các ngài đã từng làm năm 1951, 1952, 1956, 1964.
8. Nhưng muốn được như thế điều tiên quyết là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hiện nay phải đứng ra ngoài Mặt Trận Tổ Quốc. Vì sao ? Vì Mặt Trận quản lý các tổ chức, các hội đoàn nhưng không thể quản lý các Tôn Giáo được. Vì ngoài các nguyên tắc hành chánh như các hội đoàn, các Tôn Giáo còn có các nguyên tắc về giới luật, về tu chứng. mà Mặt Trận không thể hiểu vì đa số cán bộ Mật Trận là những người không có đạo. Không hiểu mà muốn quản lý thì phải thắt chặt, mà càng thắt chặt thì càng vi phạm tự do Tôn Giáo như nghị định 26 là quá rõ ràng.
9. Ngoài ra còn một điều nữa mà tôi muốn nói là một Giáo Hội nằm ngoài Mặt Trận, một Giáo Hội nằm trong Mặt Trận như một con chim ngoài lồng, một con chim trong lồng thì làm sao mà cùng sánh vai bay vào cõi trời cao rộng cho được.
Ðến đây tâm sự cũng đã quá dài mà Tôi biết càng dài thì càng nhiều nguy hiểm. Nhưng tôi đã nguyện với lòng mình rằng : Nếu đem thân mạng của mình để đổi lấy sự tồn tại của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và của các tổ chức giáo dục thanh thiếu nhi chân chính thì tôi cũng đã sẵn sàng.
Tết Giáp Thân đã về, Giáp là cái vỏ, Thân là con khỉ – theo thuyết tiến hoá của Ðắc-Uyn thì con người ta là do con khỉ biến thành nên ai cũng mang một cái thân con khỉ hết. Nhưng may sao cái tâm của chúng ta lại là cái tâm con người. Nếu chúng ta giữ được cái tâm chân thật của con người thì mọi việc đều được hoá giải hết phải không Anh?
Kính chúc anh và gia đình một năm mới vạn sự như ý. Và mong Anh phản ảnh nội dung thư này lên lãnh đạo Chính Quyền xem như Anh đã giúp cho đất gọi tới trời.
Xin trân trọng cám ơn.
Kính thư
ký tên
Lê Công Cầu
83 Thạch Hãn – Huế
– Tôi cũng xin phép Anh để được gởi tâm sự này đến Ban Trị Sự GHPGVN Tỉnh Thừa Thiên Huế, Tăng đoàn Thừa Thiên Huế để xin quý Ngài trình lên HÐTSTƯ GHPGVN và Hội Ðồng Lưỡng Viện GHPGVNTN.
– Tôi cũng xin phép Anh để được gởi tâm sự này đến BHD Thừa Thiên để kính chuyển lên BHDTƯ phổ biến đến các Huynh trưởng GÐPT (kể cả những Huynh trưởng đã theo Phân Ban) để chia sẻ cùng tôi một tâm sự đau buồn.
Xin cám ơn.