Home / Tài liệu / PTTPGQT : Hòa thượng Thích Quảng Ðộ phản đối việc quản chế phi pháp Hòa thượng và Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang

PTTPGQT : Hòa thượng Thích Quảng Ðộ phản đối việc quản chế phi pháp Hòa thượng và Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang

Download PDF

Phật lịch 2548
Số 05/VHÐ/VT

Ðồng kính gửi :
– Ông Nông Ðức Mạnh, Tổng Bí thư Ðảng Cộng sản Việt Nam
– Ông Trần Ðức Lương, Chủ tịch CHXHCNVN
– Ông Phan Văn Khải, Thủ tướng CHXHCNVN
– Ông Nguyễn Văn An, Chủ tịch Quốc hội CHXHCNVN

V/v : Vu cáo tàng trữ “bí mật Nhà nước”.

Saigon, ngày 21.10.2004

Thưa quý Ngài,

Kể từ cuộc đàn áp bắt bớ không lý do hàng giáo phẩm thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở Lương Sơn gần thành phố Nhatrang sáng ngày 9.10.2003, trong ấy có Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi, Thích Quảng Ðộ, tính đến nay đã 378 ngày tôi bị quản chế hành chính tại Thanh Minh Thiền viện theo khẩu lệnh của Công an thành phố Hồ Chí Minh. Trong thế giới, chưa hề có quốc gia văn minh nào quản chế công dân bằng “khẩu lệnh” như ở nước ta ! Còn Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang thì bị dẫn độ về quản chế, cũng bằng “khẩu lệnh”, tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Ðịnh. Tuyệt nhiên chúng tôi không biết quản chế về tội gì, vì chưa một lần xét xử nên chẳng có án lệnh. Hơn bốn năm nay, đường dây điện thoại của tôi bị cắt, công an canh gác cẩn mật trước chùa, không ai được tự do thăm viếng tôi.

Vì vậy tôi viết bức thư hôm nay gửi đến quí ngài, mong quí ngài xuống lệnh cho các cơ quan công quyền chấm dứt tình trạng phi pháp nói trên. Tôi nói phi pháp vì hai lẽ, một là bắt bớ, quản chế không lý do ; hai là chiếu theo điều 10 trong Bộ luật Tố tụng hình sự, thì “không ai có thể coi là có tội và phải chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, điều 71 trong cùng bộ luật, thì “thời hạn tạm giam không được quá 2 tháng đối với tội ít nghiêm trọng ; không được quá 4 tháng đối với tội nghiêm trọng”. Tổng cộng tối đa không được quá 12 tháng, và “khi đã hết thời tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam”.

Sau khi Ðức Tăng thống và tôi cùng các Thượng tọa, Ðại đức đi cùng chuyến xe từ Bình Ðịnh về Saigon bị chận bắt không lý do như đã nói ở trên, tôi có nghe ông Lê Dũng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao, tuyên bố với báo chí quốc tế hôm thứ sáu 10.10.2003, rằng lý do bắt bớ Ðức Tăng thống và tôi là do hai chúng tôi tàng trữ “bí mật Nhà nước”. Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang có cho chúng tôi biết rằng, khi công an ở Lương sơn khám xét thân thể ngài, chỉ tìm thấy “không quá mười đồng bạc”. Vậy xin hỏi bạc tiền do Nhà nước in ra cho dân chúng tiêu pha có là “bí mật Nhà nước” không ?

Còn phần tôi, không cần thiết phải biện luận. Tôi chỉ muốn cơ quan công quyền trả lời cho tôi biết “bí mật Nhà nước” tìm thấy trong túi xách tay của tôi ở Lương sơn hôm 9.10.2004 là gì ? Nếu đã tìm thấy “bí mật Nhà nước”, thì tại sao cơ quan công an hay Nhà nước không công bố các “tài liệu” ấy ra cho nhân dân trong nước và công luận thế giới được am tường ? Sự im lặng này kéo dài trên một năm hơn rồi, chứ đâu còn là chuyện mới xẩy ra hôm qua ?

Câu hỏi tôi đặt ra trên đây cốt thông giải cho bản thân tôi cũng như sự thắc mắc quá lâu của Phật giáo đồ ở trong và ngoài nước, cũng như giới bằng hữu quốc tế thường quan tâm đến vấn đề Việt Nam. Lời đáp cho câu hỏi này sẽ minh chứng về một Nhà nước Pháp quyền, điều mà mọi người đang trông đợi, và muốn chứng kiến trong thực tiễn.

Tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng, trong Bộ luật Hình sự của CHXHCNVN không thấy một điều nào quy cho tội tàng trữ “bí mật Nhà nước”. Như vậy thì sự vu cáo Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi có cơ sở pháp lý để bắt và quản chế suốt hơn một năm qua không ?

Hay là sự vu cáo tàng trữ “bí mật Nhà nước”, vốn vô tội chiếu theo bộ Luật Hình sự, chỉ tạo tiền đề cho một vu cáo khác sẽ đến sau, là “thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài”, mà chiếu theo điều 80 sẽ bị khép vào “tội gián điệp” là tội có thể lĩnh án 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình ? Hoặc sẽ tạo tiền đề để vu cáo “tội cố ý làm lộ bí mật Nhà nước”, chiếu điều 263 có thể bị phạt tù đến 15 năm ?

Tôi nói như thế cốt cho quí ngài dễ nhận ra thực trạng phi pháp phổ biến đang tồn tại trong xã hội nước ta ngày nay nhằm khủng bố người hiền lương. Chứ trong thực tế, chúng tôi không mắc vào bất cứ một tội nào cả, ngoài sự kiện chúng tôi bị các cơ quan công quyền vu hãm và lăng nhục suốt một năm hơn.

Việc tôi nêu trên đây vô cùng trầm trọng. Các ngài là người lo việc nước việc dân tất không thể nại bất cứ cớ gì để làm ngơ không xử lý.

Nhân thấy việc bắt bớ phi lý nói trên, ngày 17.10.2003, Thượng tọa Thích Viên Ðịnh, Phó Viện trưởng Viện Hóa Ðạo đã viết thư gửi quí Ngài yêu cầu trả tự do cho Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi. Sang ngày 19.4.2004, nhân danh Hội đồng Lưỡng viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Hòa thượng Thích Ðức Chơn và Thượng tọa Thích Viên Ðịnh lại một lần nữa viết thư yêu cầu quí ngài trả tự do cho chúng tôi và hàng giáo phẩm bị quản chế hoặc bằng Quyết định hoặc bằng khẩu lệnh. Nhưng cả hai lá thư ấy không hề được quí ngài hồi âm.

Tôi hy vọng bức thư tôi viết hôm nay sẽ được các ngài quan tâm xử lý.

Ở đây chúng tôi không kêu gọi sự khoan hồng hay ân huệ nào cả. Chúng tôi chỉ mong công lý được thi hành trên đất nước này, pháp luật được áp dụng, pháp quyền được tôn trọng cho mọi công dân bất phân chính kiến, tôn giáo. Chúng tôi chỉ mong Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị mà Nhà nước CHXHCNVN ký kết tại Liên Hiệp Quốc ngày 24.9.1982 được thực hiện và bảo đảm cho mọi công dân. Nếu chúng tôi tàng trữ “bí mật Nhà nước” thì xin hãy công bố tài liệu bí mật đó là tài liệu gì ? do ai viết ra ? do ai sản xuất ? sản xuất với mục tiêu gì ? Nếu chúng tôi có tội, thì xin áp dụng luật pháp để tiến hành tố tụng, đưa chúng tôi ra tòa án xét xử công khai và công bằng như tại các quốc gia văn minh và dân chủ với mọi quyền luật sư bào chữa, như qui định trên Hiến pháp, trong bộ Luật Tố tụng Hình sự hay trong Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị của LHQ.

Năm ngoái, báo chí Ðảng và Nhà nước loan tải việc “Chiến lược phát triển hệ thống Pháp luật Việt Nam” sẽ được thực hiện trong vòng bảy năm, bắt đầu từ ngày 4.9.2003 và kết thúc năm 2010. Chiến lược này được quốc tế hoan nghênh và tài trợ. Ðảng và Nhà nước đã nhận được của Cơ quan phát triển LHQ, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, và các nước Thụy Ðiển, Ðan Mạch, Nhật Bản, Canada, Pháp, Úc khoản tài trợ năm (5) triệu Mỹ kim cho bốn năm đầu.

Với ý chí phát triển và cải thiện nền pháp luật Việt Nam, với số tiền to lớn mà thế giới cung cấp, tôi hy vọng rằng làm sáng tỏ việc bắt bớ, quản chế Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và tôi suốt một năm qua, và việc vu cáo chúng tôi tàng trữ “bí mật Nhà nước” cần được giải quyết nhanh chóng và công minh theo hướng phát triển nền pháp luật mới trên đất nước này.

Trân trọng kính chào quý Ngài.

Viện trưởng Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
(ấn ký)
Sa môn THÍCH QUẢNG ÐỘ



Unicode


VNI


VPS


VIQR

Check Also

Bản Hiến chương GHPGVNTN tu chỉnh lần cuối ngày 4 tháng 12 năm 2015

  HIẾN CHƯƠNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT Bản tu chỉnh thông …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *