PARIS – Không như Hoa Kỳ, Quốc hội Châu Âu ít tổ chức các cuộc điều trần. Vì vậy từ 30 năm qua, hôm thứ hai 12.9.2005, lần đầu tiên mới có một cuộc điều trần về tình trạng nhân quyền tại ba nước Cam Bốt, Lào và Việt Nam. Do cuộc vận động khẩn thiết của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam và Diễn đàn Dân chủ Á châu, Quốc hội Châu Âu đã đồng ý mở cuộc điều trần để đánh dấu 30 năm kết thúc chiến tranh mà cũng là 30 năm xích hóa Cam Bốt, Lào và Việt Nam.
Hà Nội, Vạn Tượng và Nam Vang đã thất bại trong việc ngăn cản cuộc điều trần. Ba Ðại sứ tại Vương quốc Bỉ và Liên hiệp Châu Âu của ba nước đã đến gặp Ủy ban Ðối ngoại Quốc hội Châu Âu yêu cầu hủy bỏ cuộc điều trần, với lý do “các tổ chức đến điều trần không am hiểu thực tại chính trị và nhân quyền” tại ba nước. Nhưng bà Hélène Flautre, Chủ tịch Phân ban Nhân quyền Quốc hội giải thích cho các đại sứ hiểu về truyền thống dân chủ là phải biết lắng nghe và đối thoại, bà ngỏ lời mời ba đại sứ đến tham dự cuộc điều trần. Bà Phan Thúy Thanh, Ðại sứ Hà Nội tại Vương quốc Bỉ và Liên hiệp Châu Âu, nhận lời với điều kiện được phát biểu. Nhưng Quốc hội Châu Âu đã thẳng thắng nói KHÔNG, vì lẽ Quốc hội Châu Âu đã mời các nhà đấu tranh cho nhân quyền thuộc tổ chức Diễn đàn Dân chủ Á châu đến thuyết trình rồi.
Từ Hà Nội, bà Tôn Nữ Thị Ninh, Phó chủ nhiệm Ủy ban Ðối ngoại của Quốc hội, viết thư phản đối và yêu cầu Quốc hội Châu Âu hủy bỏ cuộc điều trần.
Nhưng cuộc điều trần vẫn cứ diễn ra trong không khí quan tâm và thân ái của trên một trăm Dân biểu thuộc Phân ban Nhân quyền, Quốc hội Châu Âu. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn thấy không khí náo nhiệt khi bước vào phòng điều trần. Vừa lúc ấy Dân biểu Marco Pannella nói với chúng tôi rằng : “Chưa bao giờ họp bàn về nhân quyền lại đông như hôm nay. Các vị có nhớ không, hồi đầu năm nay, khi ông Nguyễn Văn An, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, cầm đầu một phái đoàn đông đảo đến đây nhưng không được Chủ tịch Quốc hội Châu Âu tiếp, Quốc hội cũng từ chối tổ chức cho phái đoàn Hà Nội thuyết trình. Cuối cùng, ông Nguyễn Văn An yêu cầu được gặp Phái đoàn Quốc hội Châu Âu liên hệ các quốc gia Ðông Nam Á, thì chỉ có 5 Dân biểu đến gặp. Nhưng giữa buổi thuyết trình 3 Dân biểu rời phòng họp, còn 2 người ở lại cho đến phút chót ! Hôm nay các vị thành công quá sức tưởng tượng”.
Trong lời tuyên bố khai mạc cuộc điều trần cùng những nguyên do tổ chức, Bà Hélène Flautre, Chủ tọa cuộc điều trần đưa cao cuốn Sách Trắng về Nhân quyền của Hà Nội và nói : “Cuộc điều trần hôm nay rất sôi động với nhiều phản ứng. Hôm qua tôi đã tiếp ba Ðại sứ Cam Bốt, Lào và Việt Nam. Hôm nay, trong phòng hội này có mặt bà Nguyễn, Cố vấn Ðại sứ quán Việt Nam, bà ngỏ ý muốn được phát biểu và phân phát tập tài liệu Sách Trắng về Nhân quyền. Nhưng tôi phải dùng quyền hạn của mình cùng những quy tắc của Quốc hội Châu Âu bác bỏ việc đó. Một trong những lý do bác bỏ là ngay dưới mắt tôi đây, nơi Chương IV của Sách Trắng về Nhân quyền, do CHXHCNVN gửi đến tôi, thì đây là một mẩu hợp tuyển của sự dèm pha, bôi nhọ những tổ chức nhân quyền. Quốc hội Châu Âu không thể là diễn đàn cho một sự phỉ báng như thế”. Sau đó bà giới thiệu 6 điều trần viên ba nước, chức vụ cùng quá trình hoạt động của từng người :
Phía Cam Bốt là ông Sam Rainsy, Chủ tịch Ðảng Ðối lập Cam Bốt, Dân biểu Quốc hội, và bà Kek Galabru, Chủ tịch Hội Bảo vệ Nhân quyền Cam Bốt. Phía Lào là bà Vanida Thepsouvanh, Chủ tịch Phong trào Nhân quyền Lào, và bà Ruhi Hamid, ký giả Ðài BBC, tác giả cuốn phim tài liệu về người Hmong sống trốn lánh trong rừng từ 20 năm qua. Phía Việt Nam là ông Võ Văn Ái, Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, Chủ tịch Diễn đàn Dân chủ Á châu, Phó chủ tịch Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền, và ông Phạm Văn Tưởng (tức cựu Tăng sĩ Thích Trí Lực) người bị công an Việt Nam bắt cóc tại Nam Vang đưa về giam ở Việt Nam, mặc dù ông đã được Cao ủy Tị nạn LHQ ở Nam Vang cấp thẻ tị nạn và bảo vệ chính trị cho ông.
Sau phần điều trần khúc chiết, hùng hồn với đầy đủ số liệu, chứng cớ, hoặc xúc động và chân thực của những chứng nhân trong cuộc ở ba nước, là phần chất vấn của các vị Dân biểu. Thế nhưng ở phần này chẳng có ai thắc mắc. Hầu như ai cũng biết rõ chính sách chà đạp nhân quyền tại ba nước. Các Dân biểu chỉ nói lên sự thông cảm, đồng tình, hoặc lo tìm giải pháp chận đứng bàn tay thô bạo của nhà cầm quyền cộng sản tại ba nước. Một vài vị Dân biểu từng đến Việt Nam hội họp hoặc thăm viếng bỗng nhiên trở thành những tiếng nói nhân chứng sống động.
Tập tài liệu dày 37 trang khổ A4 mang tựa đề “30 năm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, tình trạng nhân quyền tại Cam Bốt, Lào và Việt Nam” bằng tiếng Anh và Pháp, do Diễn đàn Dân chủ Á châu soạn thảo. Tài liệu đã được đưa lên Trang nhà của Quốc hội Châu Âu một tuần lễ trước cuộc điều trần, để cho các vị Dân biểu nghiên cứu, so sánh, hầu có thể phản bác, chất vấn nếu tìm ra những điều sai trái. Nhiều Dân biểu nói với chúng tôi rằng : “Tài liệu này là sự trả lời hùng hồn nhất cho tập Sách Trắng về nhân quyền của Hà Nội”.
Chúng tôi xin ghi lại một số lời tiêu biểu mà cũng có tính chất đại biểu của các Dân biểu Quốc hội Châu Âu sau khi nghe xong cuộc điều trần :
Bà Monica Frassoni (Ðảng Xanh) : “Tôi không có chân trong Phân ban Nhân quyền, nhưng vẫn đến tham dự điều trần để nói lên lời mắt thấy tai nghe. Tháng tư vừa rồi tôi đến Việt Nam trong khuôn khổ công tác của Quốc hội Châu Âu và tôi vô cùng xúc động khi được dịp gặp nhà ly khai nổi danh vừa được nhắc đến trong cuộc điều trần này, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, nhà lãnh đạo số hai của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tôi cũng tìm cách gặp một nhà ly khai quan trọng khác là ông Hoàng Minh Chính. Cả hai vị được xem như “đang được tự do”. Sau khi tôi gặp Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, thì tức khắc sau đó ngôi chùa của ngài bị phong tỏa, công an canh gác cẩn mật, không còn ai được đến thăm ngài nữa. Còn trường hợp ông Hoàng Minh Chính, người đã bỏ suốt đời đấu tranh và bị tù tội, thì 5 công an đã chận trước hẽm không cho tôi vào thăm.
“Tôi nhắc tới sự kiện này với nhà cầm quyền Việt Nam khi Phái đoàn Quốc hội chúng tôi tiếp xúc với các Bộ trưởng Việt Nam, họ trả lời mơ hồ, lại như muốn chối bỏ một chuyện như thế có thể xẩy ra ! Ðiều tôi thắc mắc là sự thành công phát triển trên đất nước này đã vượt qua các hậu quả tiêu cực của chiến tranh, mà tôi ca ngợi, lại là điều cộng đồng thế giới đem ra biện chính cho các vi phạm nhân quyền trầm trọng. Ðây là vấn đề tra vấn chúng ta trong việc chấp nhận cho Việt Nam gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại thế giới).
“Ở đây tôi muốn nói lên sự chứng kiến của tôi và xác nhận sự may mắn lớn cho tôi khi được diện kiến Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, một con người tuyệt đối tự tại vô ngại, một con người mang những khả năng vô biên. Hòa thượng biết rõ những rủi ro đang gặp phải, những hiểm nguy mà Giáo hội ngài đối diện. Hình ảnh ngài mang lại cho tôi niềm hy vọng tột cùng.
Ông Charles Tannock, Phó chủ tịch Phân ban Nhân quyền Quốc hội Châu Âu, thuộc Ðảng Bình dân Âu châu và Dân chủ Âu châu (đảng đa số) : “Trước hết cho tôi ngỏ lời cám ơn bà Penelope Faulkner (chị Ỷ Lan) đã vô cùng lưu loát và sống động khi thông dịch lời nhân chứng kinh hoàng của cựu Tăng sĩ Thích Trí Lực. Nhờ vậy cho chúng ta thấy ra một nhân chứng sống với biết bao khổ đau bức bách xẩy ra cho các cộng đồng tôn giáo như Phật giáo là một. Trước đây, bà Faulkner đã từng đến gặp tôi trình bày mong muốn của tổ chức bà về sự khẩn thiết của cuộc điều trần ngày hôm nay. Phải nói rằng cuộc điều trần rất thành công. Tôi là người đã nhiều lần chất vấn Quốc hội Châu Âu hoặc thúc đẩy những Nghị quyết về vấn đề đàn áp người Thượng theo đạo Tin Lành.
“Thật nghịch lý để nhận rằng Việt Nam đang theo đuổi con đường của chính kẻ thù lịch sử của họ, Cộng hòa Nhân dân Trung quốc, với những vi phạm nhân quyền khốc liệt.
“Tôi phải nói ngay ở đây cảm tưởng khi đọc xong tập Sách Trắng về Nhân quyền (của Hà Nội). Tôi tìm thấy trong đó những thuật ngữ tương tự theo kiểu “không được xâm phạm chuyện nội bộ quốc gia”. Ðây là thứ ngôn ngữ của Trung hoa Ðỏ và Việt Nam cùng học theo chiến lược này.
“Nhưng Việt Nam cũng đồng thời theo đuổi cuộc cải cách thị trường tự do, chắc chắn vì lý do này, mà các cường quốc phương Tây và Cộng đồng Châu Âu đã sẵn sàng đối thoại nhưng lại đánh mất sự phê phán.
“Tôi hoàn toàn tán thành và hỗ trợ ý kiến của ông Võ Văn Ái rằng Quốc hội Châu Âu phải ra ngay Quyết nghị mới để nói lên các lời ta thán và tố cáo mà ông Ái gợi ý qua cuộc điều trần hôm nay mong được Quốc hội Châu Âu quan tâm.
Ông Marco Pannella, Ðảng Cấp tiến Liên quốc thuộc Nhóm Tự do và Dân chủ Châu Âu : “Tôi tán thành và xin kêu gọi Quốc hội Châu Âu hãy ra gấp một Quyết Nghị khẩn như đã yêu cầu qua cuộc điều trần”.
Ông Simon Coveney, Báo cáo viên đặc biệt về Nhân quyền của Quốc hội Châu Âu, thuộc Ðảng Bình dân Âu châu và Dân chủ Âu châu (đảng đa số) : “Cuộc điều trần thật là bổ ích. Kể từ khi khai mạc khóa mới của Quốc hội Châu Âu cho đến nay, đây là cuộc điều trần quan trọng nhất. Tôi xin ngỏ lời cám ơn tất cả. Tôi cũng nghĩ rằng chúng ta nên đặt những câu hỏi với các Ðại sứ ba nước. Riêng tôi, chắc chắn là tôi sẽ nêu lên một số câu hỏi về những gì chúng ta vừa nghe ở đây. May ra chúng ta sẽ được các Sứ quán hồi đáp chăng.
“Ðiểm trọng tâm mà tôi muốn nói, là sự thiếu hiệu lực trong Hiệp ước hợp tác song phương mà chúng ta ký kết với Cam Bốt, Lào và Việt Nam. Ðiều 1 quy định sự tôn trọng các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền là điều thiết yếu của Hiệp ước. Những gì chúng ta nghe qua cuộc điều trần hôm nay cho thấy rằng hầu như điều thiết yếu trên đây trở thành vô nghĩa.
“Chúng ta cần có những cuộc thảo luận đặc biệt về nhân quyền tại Quốc hội về hiệu lực của các điều khoản nhân quyền trong Hiệp ước hợp tác song phương.
“Ðiều tôi muốn gợi lên là làm sao để hiệu lực hóa trong việc theo dõi sự thay đổi chính sách tại các nước trên lĩnh vực các quyền cơ bản, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và những cuộc đàn áp dưới các chính thể đàn áp mà chúng ta nghe qua cuộc điều trần hôm nay.
“Liên hiệp Châu Âu trong thực tế là một đại cường trên lĩnh vực kinh tế, thương mại và viện trợ. Nếu chúng ta nhìn kỹ vào các viện trợ dành cho Cam Bốt, Lào, Việt Nam, tất thấy ngay số tiền kếch sù này do nhân dân Châu Âu đóng thuế. Cho nên chúng ta có bổn phận bảo đảm cho số tiền viện trợ kếch sù ấy nằm trong khuôn khổ Hiệp ước đã ký kết, mà điều cần thiết là phải áp lực để thực hiện sự thay đổi cơ bản cho nhân quyền.
“Vì vậy, tôi nghĩ rằng, ngay bây giờ đây, chúng ta phải tính chuyện cùng nhau đồng tình cho một Quyết nghị mới về Cam Bốt, Lào và Việt Nam, và phải bắt tay thảo luận ngay chuyện này trong những ngày tới”.
Bà Ana Maria Gomes, Phó chủ tịch Phân ban An ninh và Quốc phòng, thuộc Ðảng Xã hội : “Tôi xin cám ơn bà Chủ tịch đã có mỹ ý tổ chức cuộc điều trần hôm nay, và cám ơn tất cả các điều trần viên thuyết trình rất hay. Tôi chẳng ngạc nhiên tí nào với những điều đang xẩy ra tại Việt Nam, là quốc gia mà tôi biết rất rõ. Hai năm trước đây tôi đến tham dự một cuộc hội thảo chuyên đề do Bộ Ngoại giao tổ chức. Khi tôi phát biểu về quyền tự do giúp đỡ nhân đạo hay một số can thiệp của Việt Nam tại Cam Bốt, thì phía nhà cầm quyền Việt Nam tỏ vẻ giận dữ kinh khủng. Bởi vì điểm trúng huyệt mà họ khư khư bảo vệ, cái mà họ không ngừng ngăn cấm bất cứ ai “xâm phạm vào lĩnh vực nhân đạo và nhân quyền”. Ðây là thái độ thường thấy tại các nước Ðông Nam Á.
“Hôm nay bà Chủ tọa có ý sẽ đưa các vấn đề này ra chất vấn Hội đồng Châu Âu. Nhưng ý kiến tôi, là ta hãy chất vấn trực tiếp các chính phủ liên hệ, phải chất vấn các chính phủ, bởi vì các chính phủ này chứ chẳng ai khác là tác giả của tình trạng nhân quyền tồi tệ. Còn phía Hội đồng Châu Âu, thì chúng ta yêu sách không thể tụ thủ bàng quan được nữa, mà phải can thiệp.
Ông Árpád Duka-Zólyomi, người Slovakia, thuộc Ðảng Bình dân Âu châu và Dân chủ Âu châu (đảng đa số) : “Thật là bổ ích ngồi nghe cuộc điều trần hôm nay làm cho tôi nhớ tới 40 năm sống dưới chế độ Cộng sản. Dưới chế độ này đối lập không thể nào cất đầu lên, không có cả khả năng chống đối. Cộng sản là một trò đùa ác độc. Vấn đề đặt ra ở đây là Quốc hội Châu Âu có biện pháp chế tài nào không ?
Ông Marc Tarabella, Phó chủ tịch Phái đoàn Quốc hội Châu Âu liên hệ các nước Ðông Nam Á, thuộc Ðảng Xã hội : “Tôi chú tâm theo dõi và giật nẩy mình với những gì nghe được qua cuộc điều trần chiều hôm nay. Nó mở ra cho chúng ta một chặng đường phải tiến tới trong lĩnh vực nhân quyền.
“Tuần tới, Phái đoàn Quốc hội Châu Âu liên hệ các nước Ðông Nam Á sẽ đến Vạn Tượng dự cuộc họp các dân biểu liên Quốc hội. Hiển nhiên là chúng tôi sẽ đề cập tới vấn đề mà chúng ta bàn thảo qua cuộc điều trần và yêu sách được phản hồi. Tôi bảo đảm với quý vị rằng, chúng tôi sẽ là người thông dịch trung thành cho những mối quan tâm mà quý vị đạo đạt đến Quốc hội Châu Âu hôm nay. Nhất là vấn đề tự do báo chí, là điều kiện thiết yếu cho sự thảo luận dân chủ thực sự, vấn đề lập hội tư nhân, ví dụ như thành lập các công đoàn tự do, vấn đề trả tự do cho các tù nhân vì lương thức, và tự do tôn giáo.
“Tôi rất tiếc mà phải nói ra đây, là chúng ta chẳng hề nhắc nhở chuyện nhân quyền khi đề cập đến các quốc gia Ðông Nam Á. Khi nói tới Á châu, người ta liền nghĩ ngay đến Trung quốc và Nhật bản, mà quên đi các quốc gia khác. Tôi tin rằng, thông qua những quan hệ kinh tế, xã hội, văn hóa, công đoàn, mà thúc đẩy thăng tiến mọi việc khác. Như nhân quyền là điều căn bản. Và cũng là điều căn bản phải nói lên vấn nạn nhân quyền tại đây, nếu không, Quốc hội Châu Âu sẽ mang trọng tội. Trong các quan hệ song phương cũng phải nhắc nhở luôn luôn đến nhân quyền”.
Ông Michael Gahler, Phó chủ tịch Ủy ban Phát triển, thuộc Ðảng Bình dân Âu châu và Dân chủ Âu châu (đảng đa số) : “Nghe xong cuộc điều trần mới thấy điều khoản nhân quyền trong Hiệp ước hợp tác song phương giữa Liên hiệp Châu Âu và Việt Nam chỉ là mảnh giấy loại ! Chúng ta có cơ chế nào không để ngăn cản những vi phạm nhân quyền ? Chúng ta có điều khoản nào không để cắt bỏ viện trợ ? Việt Nam và Lào sống dưới chế độ độc đảng, y như là bản nháp của rừng rú. Thật khác với Ðông Âu ngày nay. Ở Saigon ngày nay có đủ mọi thứ, nào cờ cộng sản, nào làm ăn tự do, nào tư bản được phép làm giàu… Thế nhưng công cuộc đổi mới kinh tế đang chững lại vì thiếu một cuộc cải tổ chính trị”.
CUỘC ÐIỀU TRẦN CỦA ÔNG VÕ VĂN ÁI
Mở đầu, ông Ái cám ơn và ca ngợi Quốc hội Châu Âu như một thiết chế quốc tế đầu tiên quan tâm rất sớm đến tình trạng nhân quyền tại Việt Nam “trong khi dư luận thế giới còn mê sảng nơi hội chứng Việt Nam”. Ông nhắc lại “Năm 1985, kỷ niệm 10 năm Saigon thất thủ, chúng tôi đã đến LHQ khiếu kiện Việt Nam vi phạm nhân quyền quy mô và trắng trợn. Quốc hội Châu Âu đã tức khắc ra Quyết nghị hỗ trợ và yêu cầu gửi phái đoàn điều tra đi Việt Nam. Quốc hội Châu Âu cũng đã chỉ định một Báo cáo viên đặc biệt về nhân quyền Việt Nam. Thật là một phản ứng quốc tế sốt dẽo. Ngay năm đó, LHQ vẫn chưa đi xa đến thế. Và hôm nay đây, Quốc hội Châu Âu lại đánh dấu 30 năm Saigon thất thủ bằng sự quan tâm đến tình trạng nhân quyền tại ba nước chúng tôi”.
Ông Ái cho biết “Liền sau năm 75, tôi báo động thế giới con số 500.000 tù nhân chính trị cần bênh vực, thì nhà cầm quyền Hà Nội vu cáo tôi “nói dối”, thuộc “thế lực xấu”, “thế lực phản động”, “tơ tưởng chế độ cũ”. Sự vu cáo ấy vẫn tiếp diễn tới ngày hôm nay qua cuốn Sách Trắng về Nhân quyền mà Hà Nội công bố hôm tháng 8 vừa qua. Thế nhưng khi nguồn viện trợ của Liên Xô cạn kiệt, Hà Nội quay đầu tìm nguồn viện trợ phương Tây, thì ông cố thủ tướng Phạm Văn Ðồng công bố vào cuối năm 1978, rằng đã trả tự do cho 2 triệu tù nhân cải tạo, 4 lần hơn con số tôi đưa ra trước đó.
“Ngày nay Việt Nam vẫn sống dưới chế độ độc tài cộng sản, vẫn là một nhà tù giam nhốt dân tộc họ. Ðiều 4 trên Hiến pháp cho phép đảng Cộng sản toàn quyền chuyên chính cai trị đất nước và gạt phăng mọi thành phần dân tộc khác. (…) Ðiều mới mẻ ở Việt Nam là dùng luật pháp để đàn áp nhân quyền. Giúp cho việc thực hiện này, Quốc hội Châu Âu, Nhật, Ngân hàng thế giới và nhiều nước khác đang đổ hàng triệu đô la viện trợ cho Hà Nội, tưởng rằng đang góp tay xây dựng một Nhà nước pháp quyền. Ðây chính là Chiến lược phát triển hệ thống luật pháp thực hiện trong vòng 10 năm với tiền thuế đóng góp của người dân Châu Âu. Thực tế là để củng cố chế độ độc tài với những phương tiện “pháp lý” hòng truy diệt đối lập. Kiểm soát chặt chẽ quần chúng bằng các cơ chế công an khu vực, hộ khẩu và lý lịch. Nay thêm những luật pháp kềm tỏa, chẳng hạn như Nghị định 31/CP quản chế hành chính từ 6 tháng đến 2 năm bất cứ ai bị “nghi” xâm phạm “an ninh quốc gia” mà không thông qua tòa án, cấm đoán biểu tình (Nghị định 38/2005/NÐ-CP ban hành năm nay), ngăn cấm sinh hoạt tôn giáo đối với các tôn giáo độc lập (Pháp lệnh về tôn giáo ban hành cuối năm ngoái)…
“Tháng 7 vừa qua, lại thêm chỉ thị biến các quán cà phê Internet trở thành những cơ sở tiếp trợ công an. Người quản lý cybercafe được đào tạo cách theo dõi, kiểm soát khách đến truy cập liên mạng. Năm 2004 những đội công an Internet (cyberpolice) được thành lập để truy lùng những kẻ truy cập các trang nhà “nhạy cảm” cung cấp các tin tức nhân quyền và dân chủ.
“Tất cả những luật pháp như thế trái chống với nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam. Ðặc biệt là trái chống với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của LHQ, hay ngay cả Hiệp ước hợp tác song phương Liên Âu và Việt Nam, mà điều 1, tôi xin nhắc nhở với quý vị, bó buộc Việt Nam phải tôn trọng các quyền cơ bản. Năm 2002, Ủy ban Nhân quyền LHQ than phiền về sự kết án tử hình bừa bãi tại Việt Nam, thì Hà Nội liền “sửa sai” năm 2003 bằng cách liệt các thông tin về án tử hình vào “bí mật Nhà nước”. Việt Nam cũng vi phạm các điều ước quốc tế và các quyền cơ bản bằng sự khoanh tay trong các lĩnh vực xã hội và y tế. Ví dụ như con số báo động về bệnh Sida : 250.000 người mắc bệnh, mỗi năm có thêm 40.000 mắc bệnh, đa phần là giới trẻ. Cũng giống như tệ nạn buôn bán phụ nữ, Hà Nội né tránh vấn nạn y tế và chủ súy sự bêu xấu. Bệnh Sida là sự bất thiện xã hội, kẻ mắc bệnh là những phần tử xấu, chứ không là những nạn nhân. Họ bị xem như hủi và bị xã hội chối bỏ.(…)
“Ðể giải quyết các vấn nạn trên đây, phải cậy nhờ tới các xã hội dân sự. Nhưng 60 năm chiến tranh rồi nạn độc tài làm hủy tiêu các xã hội dân sự. Việt Nam ngày nay không có chỗ đứng cho các đảng phái đối lập, không có công đoàn tự do, không có các tổ chức phi chính phủ độc lập. Chỉ còn lại các cộng đồng tôn giáo chịu dấn thân vào các nghĩa cử giáo dục, từ thiện, và quan tâm tha thiết đến các quyền con người cơ bản. Tôn giáo đang bảo vệ hồn nước. Nhưng tôn giáo lại đang bị đàn áp khốc liệt”.
Ông Ái nêu rõ một số trường hợp tang thương của Phật giáo, Cao Ðài, Hòa Hảo, Tin Lành, Công giáo. Ðặc biệt là trường hợp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và người Thượng Tây nguyên mà nạn nhân trốn thoát sang Cam Bốt bị dẫn độ về Việt Nam, bị hành hạ, mặc những hứa hẹn với Cao ủy Tị nạn LHQ. Ông cũng nhắc tới sự kiện Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp đón Ðại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang năm 2003 đem lại nhiều tin tưởng cho một sự đổi thay chính sách tôn giáo. Nhưng 6 tháng sau đó, lại tiếp diễn khủng bố, bắt giam hàng giáo phẩm lãnh đạo, trong số này có Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Ðộ. Trước đó, 2 năm quản chế (2001-2003) áp dụng khắc khe cho Hòa thượng Thích Quảng Ðộ vì Hòa thượng tung “Lời kêu gọi cho Dân chủ Việt Nam”.
Kết thúc bài điều trần, ông Võ Văn Ái nói : “Ðó là hình ảnh Việt Nam 30 năm sau chiến tranh kết thúc. Thảm nạn Việt Nam cơ bản đến từ sự độc quyền của đảng Cộng sản. Theo bà Tôn Nữ thị Ninh, cựu Ðại sứ Hà Nội tại Vương quốc Bỉ và Liên hiệp Châu Âu, thì Ðảng muốn “xây dựng dân chủ trên hệ thống độc đảng”. Thật là một sự lừa đảo, chẳng khác chi kẻ đốt nhà đi chữa lửa, lại khước từ bất cứ ai tình nguyện đến chữa cháy.
“Chúng tôi nghĩ rằng, phải chối bỏ thứ “quyền” mà bà ta rêu rao tại Diễn đàn ASEM 5 tổ chức tại Hà Nội tháng 9.2004, “quyền bảo vệ thiểu số”. Thiểu số mà bà ta bảo vệ là 2,6 triệu đảng viên Cộng sản đang ngồi chễm chệ trên đầu 82 triệu dân. Bởi vì đảng Cộng sản là cái thắng kìm hãm sự phát triển Việt Nam, là động cơ thoái bộ.
“Liên hiệp Châu Âu là một trong những đối tác quan trọng nhất của Việt Nam, không thể nào tiếp tục viện trợ cho Việt Nam mà chẳng chịu quan tâm đến vấn đề nhân quyền. Vì đây là tiền của người công dân Châu Âu đóng thuế. Mặt khác còn cả điều 1 liên hệ đến nhân quyền và dân chủ trong Hiệp ước hợp tác song phương ký kết năm 1995.
“Vì vậy, tôi xin kêu gọi Quốc hội Châu Âu hãy khẩn thiết thông qua một Quyết nghị mới nói lên sự quan tâm của Quốc hội Châu Âu cho nhân quyền tại Cam Bốt, Lào và Việt Nam.
“Tôi xin đề xuất 7 điểm yêu sách mà Quốc hội Châu Âu tạo áp lực để nhà cầm quyền Việt Nam thực thi :
“1. Nhân dịp 30 năm kết thúc chiến tranh, kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam mở ra kỷ nguyên đối thoại và hòa giải bằng cách gọi mời tất cả các thành phần dân tộc tham gia bình đẳng vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, tri thức và chính trị tại Việt Nam, kể cả những tôn giáo chưa được thừa nhận mà tự thân là những xã hội dân sự còn tồn tại ;
“2. Áp lực nhà cầm quyền Việt Nam xóa bỏ điều 4 trên Hiến pháp về sự độc quyền của đảng Cộng sản, để tạo sự tham gia của mọi trào lưu tư tưởng vào công cuộc phát triển nói trên ;
“3. Yêu sách nhà cầm quyền Việt Nam phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hiện đang bị cấm đoán hoạt động, cũng như tất cả những tôn giáo khác chưa được thừa nhận, vì họ là thành viên thiết yếu của xã hội dân sự, và để cho các tôn giáo toàn quyền tự do sinh hoạt ;
“4. Áp lực nhà cầm quyền Việt Nam cải cách luật báo chí và cho phép ra báo tư nhân và độc lập để thiết lập những diễn đàn thực sự dân chủ cho những cuộc thảo luận ý kiến ;
“5. Áp lực nhà cầm quyền Việt Nam cải tổ tất cả các luật pháp thông qua trong khuôn khổ Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật, để cho các điều luật này tuân thủ luật quốc tế liên quan đến các quyền con người cơ bản, và bảo đảm với các quốc gia tặng dữ, đặc biệt là Liên hiệp Châu Âu cùng các thành viên quốc gia của Liên Âu, để cho các quốc gia này không tài trợ cho những sắc luật hạn chế nhân quyền ;
“6. Áp lực nhà cầm quyền Việt Nam cho phép thành lập các hội đoàn tư nhân và độc lập như những công đoàn tự do và những tổ chức phi chính phủ, và khuyến khích sự xuất hiện của những xã hội dân sự năng động ;
“7. Kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do tức khắc và vô điều kiện cho những tù nhân chính trị, tù nhân vì lương thức hoặc bị quản chế vì đã biểu tỏ chính đáng các quyền tự do ngôn luận, tư tưởng và tôn giáo, như trường hợp Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, và các nhà bất đồng chính kiến sử dụng Internet Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Vũ Bình.
CUỘC ÐIỀU TRẦN CỦA NHÂN CHỨNG PHẠM VĂN TƯỞNG
Ông Phạm Văn Tưởng, tức cựu Tăng sĩ Thích Trí Lực, thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, là nhân chứng sống về một quãng đời dài bị áp bức, tù tội, quản chế, ngược đãi. Cho đến khi lánh sang Cam Bốt xin tị nạn và được Cao ủy Tị nạn LHQ tại Nam Vang cấp thẻ tị nạn chính trị. Nhưng một tháng sau đó, công an cộng sản Việt Nam bắt cóc ông tại Nam Vang và giải về Việt Nam bí mật giam tù. Nhờ áp lực quốc tế nên cuối cùng ông đã được sang tị nạn tại Thụy Ðiển sau 20 tháng tù.
Tiếng nói của nhân chứng Phạm Văn Tưởng đã gây xúc động mạnh tại cuộc điều trần, đồng thời nói lên thực trạng của chế độ công an trị xuyên biên giới.
Sau những lời cảm tạ Quốc hội Châu Âu, ông trình bày khái quát tình hình chung của Phật giáo : “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là giáo hội truyền thống, được kế thừa trải qua hai nghìn năm lịch sử. Sau khi quân Cộng sản miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam năm 1975, nhà cầm quyền Cộng sản đã đặt ách thống trị hà khắc, đang tâm đàn áp giáo hội chúng tôi hết sức nghiệt ngã và vô cùng thô bạo. Nhiều vị trong hàng giáo phẩm bị giam giữ, lưu đày, hai vị lãnh đạo giáo hội là Hòa thượng Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Ðộ hiện giờ cũng đang bị quản thúc nghiêm ngặt.
“Câu chuyện của tôi bắt đầu từ năm 1992, khi Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, Chánh thư ký kiêm Xử lý Viện Tăng thống, viên tịch tại chùa Linh Mụ, Huế. Ngài để lại di chúc phó thác cho Hòa thượng Thích Huyền Quang tiếp tục điều hành giáo hội. Bản thân tôi cũng có những hoạt động đòi hỏi tự do tôn giáo qua công cuộc vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tôi bị chính quyền Cộng sản bắt ngày 2.10.1992 với nhiều Tăng sĩ khác. Mấy tháng sau thả ra nhưng bị đưa về quản thúc tại chùa Già Lam rồi Pháp Vân ở Saigon.
“Ngày 6.11.1994 tôi bị bắt lại, vì tham gia Ðoàn cứu trợ nạn nhân lũ lụt tại đồng bằng sông Cửu Long do Hòa thượng Thích Quảng Ðộ tổ chức. Ngày 15.8.1995 tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra án quyết phạt tôi 30 tháng tù giam và 5 năm quản thúc sau khi mãn hạn tù với tội danh “phá hoại chính sách đoàn kết” và “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để xâm phạm quyền lợi Nhà nước”.
“Ngày 13.2.1997, mãn hạn tù tôi rời khỏi Trại cưỡng bức lao động Z30A ở Xuân Lộc, tỉnh Ðồng Nai và tiếp tục thi hành án lệnh quản thúc. Mỗi tháng phải đến trình diện công an, bị hạch xách đủ điều. Cho đến ngày 13.2.2002, lẽ ra tôi được mãn hạn quản thúc theo pháp lý, thế nhưng đảng Cộng sản đương quyền vẫn tiếp tục quản thúc tôi mà chẳng cho biết lý do. Mọi sinh hoạt của tôi đều bị kiểm soát nghiêm ngặt. Ròng rã suốt mười mấy năm qua, thật sự tôi chưa hề có được một ngày sống trong không khí tự do. Bởi thế cho nên, tôi chẳng còn sự chọn lựa nào khác, đành lòng phải ra đi lánh nạn Cộng sản.
“Tôi vượt qua biên giới và đến được Vương quốc Cam Bốt ngày 19.4.2002. Sau khi được phủ Cao ủy Tị nạn LHQ tại Phnom Penh xem xét hồ sơ và phỏng vấn, ngày 28.6.2002 tôi được hưởng quy chế tị nạn dưới sự bảo vệ của LHQ.
“Thế nhưng vào khoảng 19 giờ ngày 25.7.2002, khi tôi đang rảo bộ trên đường số 185 đối diện chợ Russey, thì bất ngờ bị một toán công an mật vụ Việt Nam mặc thường phục và Cam Bốt bắt cóc đẩy lên xe, đánh đập tôi và tịch thu thẻ tị nạn của LHQ cấp cho tôi. Sáng hôm sau họ chở tôi về Việt Nam qua cửa khẩu Mộc Bài, tỉnh Tây Ninh. Ở đây đã có các viên chức Bộ công an chờ sẵn. Từ đây họ đưa tôi về trại giam B34, tọa lạc tại số 237 đường Nguyễn Văn Cừ, quận 1, Tp Hồ Chí Minh thuộc cơ quan an ninh điều tra (A24) của Bộ Công an.
“Suốt 13 tháng trời, tôi bị giam giữ nghiêm ngặt trong tù và biệt vô âm tín với người thân. Họ không biết tôi sống hay chết. Ngay cả sau này khi tôi được trả tự do nhà cầm quyền không bao giờ chấp nhận chuyện họ bắt cóc tôi. Nếu như thế thì làm sao Cao ủy Tị nạn LHQ lại cấp thẻ tị nạn cho tôi tại Nam Vang ?
“Ngày 12.3.2004, tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử. Công an hăm dọa tôi không được tiết lộ việc tôi bị họ bắt cóc tại Nam Vang, nếu không nghe sẽ bị kết án nặng nề. Tòa tuyên phạt tôi 20 tháng tù về tội “trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân”. Tôi đã ở trong tù 19 tháng, nên được trả tự do vào ngày 26.3.2004. LHQ xác nhận tôi vẫn nằm dưới sự bảo trợ của LHQ, nên đã làm thủ tục cho tôi đi định cư tại Vương quốc Thụy Ðiển ngày 22.6.2004.
“Từ khi đến Thụy Ðiển tôi mới thực sự hít thở được không khí tự do, bỏ qua đi những tháng ngày đen tối, mòn mỏi trong ngục tù Cộng sản.
“Trước kia tôi không rõ, nhưng bây giờ tôi mới biết là Quốc hội Châu Âu đã không ngừng lên tiếng bênh vực cho trường hợp của tôi trong thởi gian tôi ở trong tù. Nếu việc này mà biết được thì sẽ giúp tôi thắng vượt nỗi cô đơn qua bao nhiêu tháng dài trong tù. Tôi cũng biết thêm rằng Quốc hội Châu Âu đã thông qua hằng chục Quyết nghị bênh vực cho nhân quyền tại Việt Nam.
“Tôi hết lòng biết ơn và nhân cơ hội đến đây hôm nay, tôi xin biểu tỏ tự đáy lòng mối tri ân của tôi. Không có áp lực quốc tế của các vị Dân biểu Quốc hội Châu Âu đại diện các đảng phái, các vị Thượng nghị sĩ, Dân biểu Quốc hội Cam Bốt thuộc Ðảng Sam Rainsy hiện có mặt hôm nay tại cuộc điều trần, của ông Võ Văn Ái và các tổ chức nhân quyền trong thế giới, thì tôi sẽ không bao giờ được trả tự do, và cũng không chắc gì còn sống sót để đứng đây hôm nay.
“Tôi muốn nói lên một điều, là áp lực quốc tế cho những người đấu tranh bảo vệ nhân quyền rất quan trọng. Mỗi ngày, mọi người dân bình thường đều có thể bị bắt vì phê phán ôn hòa đảng Cộng sản hoặc biểu tỏ ý kiến mình về tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Rất dễ bị án tử hình chỉ vì gửi điện thư ra nước ngoài. Không có áp lực quốc tế, nhà cầm quyền Cộng sản sẽ bịt họng toàn dân mà không sợ bị trừng phạt. Xin quý ngài hãy giúp chúng tôi nói lên nỗi thương tâm của chúng tôi cho thế giới được biết. Xin Quốc hội Châu Âu hãy lên tiếng bênh vực cho hàng nghìn tù nhân chính trị đang bị giam cầm tại Việt Nam, trong số này có Hòa thượng Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Ðộ.
“Ðặc biệt, tôi không bao giờ quên ơn chính phủ Vương quốc Thụy Ðiển, là một thành viên của Liên hiệp Châu Âu. Ðất nước này đã dang rộng vòng tay đón nhận bao nhiêu người Việt lánh nạn Cộng sản ra đi tìm tự do, và giờ này đất nước này cũng đã cưu mang tôi sau những đêm dài tăm tối bị cầm tù và ngược đãi dưới ách cai trị hà khắc của Cộng sản Việt Nam.
“Xin chân thành cám ơn quý liệt vị và cầu chúc quý liệt vị thân tâm an lạc”.