PARIS, ngày 6.7.2005 (VCHR) – Sau thời gian thụ lý hồ sơ, điều tra và kiểm chứng, Tổ Hành động Chống bắt bớ trái phép của LHQ có trụ sở ở Genève vừa lên tiếng tố cáo nhà cầm quyền Hà Nội bắt bớ trái phép, giam cầm trái phép Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và yêu sách Hà Nội trả tự do cho hai ngài.
Ðây là thành quả hoạt động của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam thu đạt tại LHQ mấy năm trước cho các nhà đấu tranh cho tự do tôn giáo, nhân quyền và dân chủ trong nước, nay đến lượt hai nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, là giáo hội bị đàn áp sau năm 1975 và bị cấm đoán hoạt động kể từ năm 1981, là năm Ðảng cộng sản cho ra đời Giáo hội Phật giáo Nhà nước, tức Giáo hội Phật giáo Việt Nam, để làm công cụ chính trị cho Nhà nước cộng sản.
Trong các khóa họp thường niên của Ủy hội Nhân quyền LHQ tại Genève, ông Võ Văn Ái nhân danh Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam kiêm Phó Chủ tịch Liên Ðoàn Quốc tế Nhân quyền không ngừng lên tiếng cho những trường hợp bắt bớ trái phép, giam cầm trái phép các nhà đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ và tôn giáo tại Việt Nam. Lần này, trường hợp nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ đã được cứu xét. Sau khi thụ lý hồ sơ do Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam đệ nạp, LHQ viết thư chất vấn nhà cầm quyền Hà Nội.
Thông qua ông Ngô Quang Xuân, Ðại sứ Thường trực tại LHQ ở Genève, Hà Nội trả lời nguyên văn như sau : “Tại Việt Nam, tự do tôn giáo và tín ngưỡng được ghi rõ trong Hiến pháp và luật lệ, cũng như trong thực hành. Những thông tin về tình trạng Thích Quảng Ðộ hoàn toàn giả tạo. Ðiều cần phải xác định rõ, là Thích Quảng Ðộ vẫn tiếp tục sống và hành đạo tại chùa Thanh Minh, hoàn toàn tự do, không hề bị giám sát hành chính hay giam cầm”.
Còn về trường hợp Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang thì viết rằng : “Tại Việt Nam, tự do tôn giáo và tín ngưỡng được ghi rõ trong Hiến pháp và luật lệ, cũng như trong thực hành. Thông tin gửi đến cơ quan LHQ là giả dối và phải được xem như hoàn toàn giả tạo, vì các thông tin này chỉ nhằm tiếp diễn những chính kiến sai lầm và những hoạt động chống lại Nhà nước Việt Nam (…) Trong hai tháng 3 và 4.2003, Thích Huyền Quang đến Hà Nội chữa bệnh tại bệnh viện K chuyên trị bệnh ung thư và đã được các bác sĩ nổi danh chăm sóc. 10 thị giả theo ông ta, kể cả người y tá riêng của ông, được cho phép theo hầu hạ và ở tại bệnh viện trong thời gian chữa trị. Trong thời gian Thích Huyền Quang ở tại thủ đô, và theo yêu cầu của ông ta, ông đã được Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp đón. Sau khi chữa trị xong, Thích Huyền Quang trở về chùa Nguyên Thiều, tỉnh Bình Ðịnh. Theo thông tin chúng tôi nhận được mới đây, thì gần đây Thích Huyền Quang bị xuất huyết đường ruột và được chữa trị tại Bệnh việc tổng khoa ở Bình Ðịnh. Nhờ được chữa trị cấp cứu và kịp thời, ông đã thoát khỏi cơn nguy”.
LHQ đã chuyển hai bức thư nói trên đến Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam và yêu cầu bình luận các lý lẽ do Hà Nội đưa ra nhằm phủ nhận sự trạng hai nhà lãnh đạo Phật giáo bị bắt trong cuộc càn quét hàng giáo phẩm Giáo hội tại Lương Sơn ngày 9.10.2003 và quản chế bằng khẩu lệnh nhị vị lãnh đạo cao cấp của giáo hội. Ông Võ Văn Ái đã hồi âm, chứng minh bằng nhiều bằng cớ xác thực cho thấy Hà Nội đang che giấu sự thật qua cung cách trả lời “đánh trống lãng”.
Tại khóa họp lần thứ 42 ở Genève cuối tháng 5 vừa qua, sau khi so đo giữa lời nói và thực tại đối với nhị vị lãnh đạo Phật giáo, LHQ đã ra bản “Quan điểm” mang số tham chiếu 18/2005 ngày 26.5.2005 tố cáo nhà cầm quyền Hà Nội bắt bớ trái phép, giam cầm trái phép hai Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ và yêu sách Hà Nội trả tự do cho hai ngài. Tuy nhiên, theo thủ tục hành chánh của LHQ, thì bản “Quan điểm” nói trên được gửi về nhà cầm quyền Hà Nội để xem phản ứng hoặc phản bác của Hà Nội về quan điểm của LHQ. Phải chờ 3 tuần lễ sau, nếu không có những lý do phản bác chính đáng từ phía Hà Nội, LHQ mới công bố kết quả cho Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam. Theo chúng tôi được biết, thì văn thư chính thức gửi về Hà Nội hôm 6.6.2005. Và hôm nay chúng tôi vừa nhận được thư thông báo của LHQ về kết quả nói trên.
Nhân danh Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam kiêm Phát ngôn nhân của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, ông Võ Văn Ái đã tuyên bố với báo chí ở Genève rằng : “LHQ thông qua Tổ Hành động Chống bắt bớ trái phép, vừa lấy quyết định ngược lại các lời tuyên bố mới đây của Thủ tướng Phan Văn Khải tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Ông Khải khẳng định : “Không có tù nhân tôn giáo tại Việt Nam ! Không có đàn áp tôn giáo tại Việt Nam !”. Nhưng sự thật vượt trên lời dối trá, chúng tôi nhiệt liệt chào đón quyết định của LHQ về những điều kiện khắt khe mà Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Ðộ đã và đang chịu đựng từ mấy chục năm qua. Hai ngài bị cô lập, bị ly cách với quần chúng Phật tử, bị tước đoạt các quyền tự do cơ bản, và phải chịu đựng bức bách suốt bao nhiêu năm trường. Nhà cầm quyền Hà Nội cần thi hành tức khắc yêu sách của LHQ trả tự do cho hai ngài, cũng như cho tất cả những ai đang bị giam cầm, quản chế vì đã ôn hòa nói lên chính kiến hay tín ngưỡng của mình”.
Bản “Quan điểm 18/2005” dài 7 trang bằng Anh ngữ cho biết rõ thực trạng của nhị vị lãnh đạo Phật giáo, quý bạn đọc có thể bấm vào Trang nhà Quê Mẹ để xem nguyên văn :
Theo bản Quan điểm của LHQ, thì nhà cầm quyền Hà Nội xác định nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ “hoàn toàn tự do, không hề bị giám sát hành chính hay giam cầm” và họ tự do “hành đạo như thường lệ” ở Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Ðịnh và Thanh Minh Thiền viện ở Saigon. Ngược lại, thì LHQ xác nhận hai nhà lãnh đạo Phật giáo đã bị bắt bớ trái phép, và quản chế trong tình trạng vi phạm các Công ước LHQ kể từ khi hai vị tổ chức Ðại hội Bất thường của Giáo hội tại Bình Ðịnh đầu tháng 10.2003, và đã bị quản chế để “điều tra về việc lưu giữ tài liệu bí mật quốc gia”, theo lời tuyên bố tại Hà Nội của ông Lê Dũng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao.
Nhận định về trường hợp Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, 76 tuổi, LHQ tuyên bố : “Hòa thượng Thích Quảng Ðộ bị quản chế vô thời hạn kể từ ngày 10.10.2003. Kể từ đó Hòa thượng bị cấm cố ngay trong phương trượng của ngài. Có những thời gian dài, liêu phòng bị khóa chặt, công an canh gát ngay trong và ngoài khuôn viên Thiền viện.
“Là Tăng sĩ Phật giáo và một trong những Cao tăng nổi danh thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, thật hiển nhiên là Hòa thượng Thích Quảng Ðộ bị hạn chế về tự do tín ngưỡng và tôn giáo”.
Còn trường hợp Ðức Tăng thống Thích Huyền Quang, thì LHQ tuyên bố : “Hòa thượng Thích Huyền Quang bị giam cầm thường trực tại Tu viện Nguyên Thiều mà không hề có bản án nào kết tội. Hòa thượng không thể rời tu viện và luôn luôn bị theo dõi, kiểm soát. Ðã nhiều lần cơ quan công quyền từ khước lời Hòa thượng xin đi Saigon, máy Fax cũng như đường dây điện thoại ra nước ngoài bị cắt.
“Cuộc hạn chế tự do đối với Hòa thượng tương đương như một cuộc quản chế tại gia, dù những thủ tục pháp lý không hề được tôn trọng và cũng không có án lệnh nào được công bố. Tình trạng này vi phạm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị”.
LHQ kết luận : “Trên nền tảng của các nhận định trên, Tổ Hành động chống bắt bớ trái phép của LHQ đưa ra quan điểm sau đây : Sự tước đoạt tự do đối với hai Hòa thượng Thích Quảng Ðộ (thế danh Ðặng Phúc Tuệ) và Thích Huyền Quang (thế danh Lê Ðình Nhàn) là tùy tiện, vi phạm điều 18 trong Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị”.
LHQ yêu sách Hà Nội trả tự do cho nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ và thi hành các biện pháp cần thiết để cải thiện tình thế, hầu “tuân thủ các tiêu chuẩn và nguyên tắc đề ra trong Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị”.
Do sự hoạt động thường kỳ cùng các đề xuất những biện pháp chữa trị của Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, năm 1994 một phái đoàn LHQ thuộc Tổ Hành động Chống bắt bớ trái phép đã về Việt Nam điều tra tình trạng các nhà tù và luật pháp đối với tù nhân chính trị. Trong bản phúc trình vào khóa họp Nhân quyền LHQ đầu năm 1995, ông Trưởng phái đoàn Louis Joinet đã đưa ra một bức hoành tráng đen tối về các nhà tù và trại cải tạo tại Việt Nam. Ông cũng cho biết đã gặp nhiều tù nhân bị giam giữ không xét xử suốt 20 năm ròng kể từ sau năm 1975. Ông cũng lên tiếng yêu sách Hà Nội cải thiện các điều luật về “an ninh quốc gia” mà ông xác định là điều luật dẫn tới việc trừng phạt những cá nhân chỉ “hành xử chính đáng quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng”. Ông cũng tố cáo điều 73 trong Bộ luật Hình sự Việt Nam (nay chuyển thành điều luật 79) về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, là một điều luật bất minh vì không phân biệt rõ giữa những hành vi bạo lực (như khủng bố) với những hành xử ôn hòa thông qua tự do ngôn luận và tự do lập hội. Nhất là khi điều luật ấy dẫn tới những các án tù từ 12 đến 20 năm, chung thân hay tử hình. Sau cuộc điều tra nói trên LHQ yêu cầu được trở lại điều tra thêm, nhưng Hà Nội đã khước từ.