Home / Tin tức / Thông cáo báo chí / Tin PTTPGQT / Vì “Dân Việt sống mà không dám thở, có miệng ăn mà không có miệng nói, quốc hội không có dân biểu, toàn là đảng biểu”, nên Thượng tọa Thích Viên Ðịnh, Linh mục Phan Văn Lợi ở trong nước cũng như một số các tạp chí ở hải ngoại hoan nghênh lời kêu gọi cho Dân chủ đa nguyên của Hòa thượng Thích Quảng Ðộ

Vì “Dân Việt sống mà không dám thở, có miệng ăn mà không có miệng nói, quốc hội không có dân biểu, toàn là đảng biểu”, nên Thượng tọa Thích Viên Ðịnh, Linh mục Phan Văn Lợi ở trong nước cũng như một số các tạp chí ở hải ngoại hoan nghênh lời kêu gọi cho Dân chủ đa nguyên của Hòa thượng Thích Quảng Ðộ

Download PDF

Lời kêu gọi cho Dân chủ Ða nguyên của Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, gửi qua Thư Chúc Xuân nhân dịp Tết Ất Dậu đã được các giới nhân sĩ, trí thức Bắc Nam trong nước cũng như ở hải ngoại quan tâm và tán thưởng trong suốt hai tháng qua. Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã phát hành nhiều Thông cáo báo chí về những sự lên tiếng này, mà bạn đọc có thể tìm xem trong Trang nhà http://www.queme.net


Hôm nay chúng tôi xin giới thiệu sự lên tiếng của Thượng tọa Thích Viên Ðịnh qua bài “Nhận định về vấn đề Dân chủ đa nguyên”. Thượng tọa là Viện chủ Tổ đình Thập Tháp ở Bình Ðịnh và chùa Giác Hoa ở Saigon, một trong bốn vị Phó Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ðồng thời với các ý kiến thể hiện trên một số báo đài ở hải ngoại qua tiếng nói của Linh mục Phan Văn Lợi và các ông Lê Văn Ấn, Thông Luận.

– Nhận định về vấn đề Dân chủ Ða nguyên
– Ðẩy lùi sợ hãi
– Cái gì không còn nữa ?
– Ông Nguyên Khôi, Ðài Phát thanh Quê Hương ở Bắc California phỏng vấn Linh mục Phan Văn Lợi

NHẬN ÐỊNH VỀ VẤN ÐỀ DÂN CHỦ ÐA NGUYÊN
Thích Viên Ðịnh

Năm Ất dậu 1945, Ðệ nhị thế chiến chấm dứt, các nước thuộc địa, các nước nhược tiểu như Ấn-độ, Indonesia, Mã-lai, Philippines… đứng lên giành độc lập, tái lập hòa bình, canh tân đất nước. Riêng Việt-nam bị vướng vào chủ thuyết Mác-Lênin, nên lại tiếp tục một cuộc chiến khác, cuộc chiến ý thức hệ, làm cho non sông chia cắt, huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt, mãi đến năm 1975, hòa bình mới tái lập. Phe Mác-Lênin thắng trận, hô vang khẩu hiệu : “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã hội chủ nghĩa”.

Marx cho rằng, sở dĩ có bóc lột, vì có tư hữu các tư liệu sản xuất như ruộng đất, nhà máy. Muốn hết bóc lột, phải quốc hữu hóa tất cả. Nhân dân phải vô sản, chỉ đi làm công cho nhà nước, nên không còn giàu nghèo, không có cạnh tranh, làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, thì không còn ai bóc lột ai nữa.

Từ 1975-1985, áp dụng đường lối chuyên chính vô sản, ở nông thôn, nhà nước đã quốc hữu hóa ruộng đất cho vào hợp tác xã, ở thành thị thì đánh tư sản, tiểu thương. Tất cả đều vào quốc doanh từ nhà máy đến cửa hàng buôn bán nhỏ. Toàn dân đều đi làm công lấy điểm. Tất cả trở thành vô sản, làm cho dân tộc vừa thoát khỏi chiến tranh, liền rơi vào cảnh đói nghèo, kiệt quệ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhân dân đau khổ khốn cùng nhưng không ai dám nói. Có một nhà giáo ở miền Trung, đói khổ quá, than thở :

Chiều ba mươi tết, thầy giáo tháo giày ra chợ bán,
Sáng mồng một giáo chức dứt cháo đón mừng xuân.

Rủi thay, lời than thở của anh lọt vào tai chính quyền, nghe nói anh bị bắt làm kiểm điểm 3 tháng trời.

Nhà nước áp dụng chủ nghĩa vô sản, tuy không còn kẻ giàu, người nghèo, không còn ai bóc lột ai nữa, nhưng lại rơi vào cảnh ” cha chung không ai khóc”, “lắm sải không ai đóng cửa chùa”. Ai cũng chỉ đi làm lấy có, xảy ra nhiều chuyện buồn cười như chuyện trẻ con chọc các cụ già trồng cây lấy điểm ở miền Bắc :

Hoan hô các cụ trồng cây,
Mười cây chết chín, một cây gật gù.

Các cụ đáp lại :

Các cháu có mắt như mù,
Mười cây chết hết, gật gù ở đâu ?

(trích sách Nhận định… của HT Quảng-Ðộ)

Không ngờ, hết thực dân, đất nước ta lại rơi vào chế độ Mác-Lênin, tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Khiến cho dân tộc điêu linh, non sông tan nát, tình người đổ vở, làng xóm chia lìa, kẻ lên núi, người xuống biển. Chiến tranh cũng chết, hòa bình cũng chết. Xác người rải rác khắp nơi, trên núi rừng, nơi đồng ruộng, dưới sông, dưới biển, trong trại cải tạo, trong nhà tù, cả trong bụng cá. Chết do hải tặc cũng có, do thuyền hư chết máy cũng có, do bão tố, hết lương thực, chết đói, chết khát cũng có, tình cảnh thật là đau xót thương tâm :

Lưu vực điêu tàn ở Biển Ðông
Xương bầy như thú cháy rừng hoang
Nhưng rừng không cháy nào đâu thú
Người chết thân chìm Thủy Mộ Quan.

Trinh nữ trầm oan nổi giữa dòng
Thân băng ngàn hải lý về sông
Xung quanh không một người than khóc
Chỉ cá trùng dương theo hộ tang.

Viên Linh (Thủy Mộ Quan)

Cứ tính xem số người vượt biên đến được bến bờ tự do bao nhiêu thì người chết dưới biển cũng bấy nhiêu. Thật là đau đớn, hầu như gia đình nào cũng có người chết, người mất tích, người đi xa, biết bao thương binh, góa phụ, cô nhi, biết bao tang tóc, chia lìa, những người may mắn sống sót nay được đón tiếp gọi là Việt kiều yêu nước, còn những người xấu số đã vùi xác dưới biển thì sao ?

Ðến nay, năm 2005, trải 60 năm, dù đã hòa bình, dân tộc vẫn tiếp tục bị phân hóa, bất hòa, chia rẽ, mất đoàn kết, nên không vận dụng được tất cả tài năng, sức lực, để cùng nhau hàn gắn những đổ vỡ, mất mát, xây dựng lại xứ sở quê hương. Tất cả đều do chủ thuyết Mác-Lênin chủ trương bạo động đấu tranh giai cấp mà ra.

Nghĩ lại, Việt-nam ta với 4.000 năm văn hiến, với tư tưởng nhân nghĩa, hòa ái, dung hợp, đa nguyên làm chủ đạo, mới dựng nước, giữ nước, mở mang bờ cõi từ ải Nam quan đến mũi Cà mau. Một dải non sông tươi đẹp, với dân tình hiền hậu, đoàn kết, yêu thương, nay lại bị lây nhiễm cái chủ nghĩa ngoại lai cực đoan, đấu tranh bạo động, gây ra biết bao đổ vỡ. Chủ thuyết duy vật vô thần đó, đã làm băng hoại xã hội Việt-nam, khiến cho văn hóa, đạo đức suy đồi, giáo dục xuống cấp, kinh tế kiệt quệ, tình người tan nát, tuổi trẻ hoang mang.

Mác-Lênin chủ trương đấu tranh giai cấp bạo động để cướp chính quyền. Sau khi nắm chính quyền rồi, thực hiện chuyên chính vô sản. Nắm giữ chính quyền bằng độc tài, độc đảng, bằng súng đạn, lưỡi lê và nhà tù. Hoặc bằng các thủ đoạn đe dọa, khủng bố, dối gạt, tuyên truyền, bằng bất cứ phương tiện nào, với bất cứ giá nào.

Nhưng sau hơn 70 năm thí nghiệm, chủ thuyết Mác-Lênin đã thất bại, tan rã. Từ năm 1989 đến năm 1991, các nước Liên-xô và Ðông-Âu đã dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa lạc hậu này, ngày nay chỉ còn sót lại 4 nước, trong đó có Việt-nam.

Sau 10 năm thí nghiệm, áp dụng chuyên chính vô sản từ năm 1975 đến năm 1985, Việt-nam cũng đã thất bại, làm kiệt quệ đất nước. Nếu không đổi mới là chết, nên năm 1986, Việt-nam bắt chước Trung cộng, làm ăn theo kinh tế thị trường tư bản. Nhưng đã 20 năm rồi, vì không đổi mới chính trị, nên nền kinh tế không cất đầu lên nổi, Vì vậy, Việt-nam vẫn còn là một trong mười nước nghèo nhất thế giới, thu nhập bình quân mỗi người một ngày chỉ có hơn một đô la, thua Thái lan đến 5 lần tính theo số liệu điều tra của Quốc hội Châu Âu năm 2003. Trong khi ở thập niên 1950, Việt-nam là nước giàu nhất nhì châu Á, hơn cả Nhật-bản .

Theo kinh tế thị trường tức là chấp nhận có tư sản, không vô sản nữa. Như vậy, Việt-nam đã bỏ đi một nửa chủ thuyết Mác-Lênin rồi, nhưng vẫn còn giữ lại nửa kia là độc tài, độc đảng, duy trì chánh quyền bằng sức mạnh, không có tự do. Tại sao đã theo kinh tế thị trường, mà lại không chịu bỏ hẳn độc tài, độc đảng, không cho dân chúng được tự do, lại chỉ đổi mới nửa chừng, một cách khập khiểng như vậy ?. Nên nhớ, khi Việt-nam chịu đổi mới, thì kinh tế khá lên ngay, dân đã bớt đói. Nhưng vì không chịu đổi mới chính trị nên đã 20 năm, đất nước vẫn còn nghèo, không giàu lên được. Hãy xem Nhật-bản, sau khi bị thất bại ở thế chiến hai, họ chú tâm cải cách đất nước theo kinh tế thị trường tự do, đa nguyên đa đảng, nên chỉ sau 20 năm, từ 1945 đến 1965, Nhật trở thành cường quốc kinh tế nhất nhì thế giới.

Ðã chấp nhận có tư hữu, có cạnh tranh, có giàu nghèo, mà không chấp nhận Tự do, Dân chủ, lại củng cố độc tài, độc đảng, thì đó là môi trường thuận lợi tạo ra nhiều tệ nạn như : tham nhũng, hối lộ, quan liêu, cửa quyền, hống hách và rất nhiều thói hư, tật xấu, làm cho các nhà đầu tư, cũng như dân chúng đều chán nản, đất nước không thể phát triển nhanh được. Muốn chận đứng những tệ nạn, để phát triển đất nước, thì vấn đề tiên quyết là phải có dân chủ, phải tuân theo các công ước quốc tế về tự do, nhân quyền mà Việt-nam đã ký kết. Phải có tự do báo chí, tự do ngôn luận, để người dân cùng góp ý, trừ bỏ những tệ nạn trên.

Dầu vì lý do kinh tế phát triển, nhưng phải hy sinh tự do, dân chủ, nhân quyền là không được, và đó cũng không phải là con đường duy nhất. Con người sống không phải chỉ có vật chất là đủ mà còn phải có cả tinh thần. Vật chất là cơm áo, gạo tiền, còn tinh thần là tự do, dân chủ, nhân quyền, đạo đức, tôn giáo. Không phải chỉ ăn là đủ, mà còn phải thở mới sống được. Dân Việt-nam sống mà không dám thở, có miệng ăn mà không có miệng nói. Muốn nói gì phải nhìn chung quanh, xem có ai nghe lén hay không, mới dám nói. Nếu có người nào gan dạ, dám nói, nhẹ thì cũng bị đe dọa, quản thúc, nặng thì bị bỏ tù. Nhưng dù có ai nói được, cũng chỉ mình nói, mình nghe, chứ đâu có phương tiện báo chí, truyền thanh, truyền hình gì để cho người khác nghe được ?

Nhìn ra thế giới chung quanh, các nước đến mùa bầu cử rất sống động, toàn dân đều rộn ràng, vui vẻ, hăng hái, lựa chọn người sáng suốt, tìm ra tổ chức, đảng phái có nhiều ưu điểm nhất, để đứng ra lãnh đạo, nhờ vậy mà đất nước người ta, mỗi ngày mỗi phát triển. Nhìn lại Việt-nam mình không giống ai cả, nhân dân im lặng, thụ động, e dè, sợ sệt như chúng ta đang sống trong một xó xỉnh nào ở thế giới khác, trong một thời đại cổ lỗ man sơ nào khác. Dân không biết ai là người lãnh đạo đất nước, không có quyền lựa chọn, không có sự lựa chọn nào. Mấy mươi năm cũng thế : một chính phủ, một đảng cầm quyền, chẳng có gì thay đổi, vẫn trì trệ, buồn chán, dã dượi, hời hợt, thờ ơ, như chuyện đã rồi. Tuy bề ngoài cũng có chính phủ, cũng có quốc hội, cũng có tòa án, nhưng tuy ba mà một, vì tất cả đều do đảng viên Cộng-sản điều hành. Như quốc-hội là cơ quan dân cử, mà tuyệt đại đa số là đảng viên, nên quốc hội Việt-nam rất ít dân biểu, mà chỉ toàn là đảng biểu. Vì vậy, luật nào đảng muốn là xong ngay, dân có muốn cải cũng không được. Mặc tình, đảng muốn thí nghiệm thế nào cũng được, người dân chỉ còn biết nhắm mắt đưa chân. Dẫu cho nhân loại văn-minh, tiến bộ, Việt-nam vẫn trì trệ, một mình, lạc lõng, lẻ loi. Thế giới ngày nay đã thân tình gần gũi bên nhau, mà nước ta cứ cách biệt đứng ở tận đâu đâu.

Làm sao đến thế kỷ thứ 21 rồi, vào năm Ất dậu 2005, mà Việt-nam vẫn còn cảnh chận đường, bắt bớ, quản thúc các tu sỹ tôn giáo ; vẫn còn có người mới đề cập đến vấn đề Dân chủ, Nhân quyền, Tự do thì phải bị ngồi tù ?

Ðất nước hòa bình đã 30 năm rồi mà lúc nào, nơi nào, chính quyền cũng vẫn cho là còn có kẻ thù âm mưu lật đổ ? Cơ chế như thế nào lại có chuyện âm mưu lật đổ, mà không thể ra ứng cử, tranh cử tự do, công bằng như ở các nước văn minh ?. Ngày nay các nước cựu thù, đã bắt tay, bang giao làm ăn với Việt-nam rồi. Vậy kẻ thù là ai ? Bao giờ mới hết kẻ thù ?

Ðã 60 năm trôi qua, nhưng Việt-nam vẫn chưa giải quyết được vấn đề của mình. Trong khi các nước như Liên-xô và Ðông-âu cũ, họ đã mạnh dạn chấp nhận từ bỏ những quyền lợi riêng tư của cá nhân, đảng phái nhất thời, để vì lợi ích chung của cả quốc gia, dân tộc, nên đã vĩnh viễn loại bỏ được căn bệnh nhức nhối của thế kỷ 20 trên đất nước họ. Có lẽ do chúng ta chưa rõ căn nguyên của vấn đề, chưa định rõ bịnh, chưa cho đúng thuốc ? Mỗi người mỗi ý, ai cũng nhân danh dân tộc, ai cũng nhân danh yêu nước. Càng nhân danh càng làm cho nhân dân đau khổ triền miên trong suốt 60 năm qua.

Có những người, những đoàn thể, tổ chức, vì quyền lợi riêng tư, nên vô tình hay cố ý ủng hộ độc tài khi nại lý do cần an ninh, ổn định, để làm kinh tế trước, còn vấn đề tự do, nhân quyền sẽ tính sau. Hoặc có người khác, tổ chức khác, ăn nói có vẻ dịu dàng, đạo đức hơn, đương nhiên cũng nhân danh yêu nước, kêu gọi xóa bỏ thù xưa, đừng nên sân hận nữa, hãy thương yêu, ôm tất cả vào lòng. Nhưng ý tưởng lại chung chung, mơ hồ, không rõ ràng, không dứt khoát, đong đưa ru ngủ. Hạng người này vô tình mang lợi cho độc tài nếu không nói là đồng lõa, mà chẳng đưa ra giải pháp gì cụ thể để giải quyết tận gốc rễ cuộc khủng hoảng trầm trọng của dân tộc .

Phải định bệnh mà cho thuốc. Không phải lúc nào, thuốc nào trị bệnh gì cũng được. Ngay cả thuốc bổ mà dùng không đúng lúc, không đúng bệnh cũng có thể làm chết người. Trong Phật giáo gọi là khế thời, khế cơ mới độ được người .Trong một xã hội, một tập thể sống chung, có nhiều mâu thuẫn, rắc rối, tuy dùng tình cảm là tốt, nhưng tình cảm thôi cũng chưa thể giải quyết hết mọi sự. Muốn hòa hợp, thân yêu, đoàn kết, phát triển, thì các xã hội, các tổ chức, các đoàn thể đều phải tuân thủ luật pháp, công bằng, dân chủ, mới giải quyết thỏa đáng mọi vấn đề. Phải có giải pháp đúng đắn và dứt khoát mới được.

Ðầu năm Ất dậu, 2005, mặc dù trong cương vị một tu sỹ, Ngài không làm chính trị, nhưng trước hoàn cảnh khó khăn của đất nước, cần có thái độ, lập trường chính trị, nên Hòa thượng Thích Quảng-Ðộ, Viện trưởng Viện-Hóa-Ðạo, Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã gửi Thư Chúc Xuân đến các nhân sỹ, trí thức, văn nghệ sỹ và đồng bào và Phật tử trong và ngoài nước, mà cũng là lời kêu gọi vận động Dân chủ đa nguyên đa đảng cho Việt-nam. Ðây là một giải pháp sáng suốt, đúng đắn, tối ưu, một nhu cầu thích hợp với trào lưu, khuynh hướng chung của thế giới văn minh, nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng cho Việt-nam hiện nay. Ngài đã thể hiện tính cách đặc thù của thiền sư Vạn-Hạnh, của Ðức Ðiều Ngự Giác-Hoàng Trần Nhân Tông, trị liệu đúng thuốc cho con bệnh và cứu dân độ thế. Ðường hướng, lập trường của Hòa-Thượng thể hiện đầy đủ đức tính Bi-Trí-Dũng, làm tấm gương sáng cho mọi người. Ðó mới là tình yêu quê hương chân thật.

Lời kêu gọi này cũng là ý tưởng mà trước đây, Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất với đại diện là Ðức Tăng Thống, Hòa thượng Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, các Thượng tọa Tuệ-Sỹ, Không-Tánh, Thiện-Minh ; đạo Thiên chúa có các linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, các đạo Tin Lành, Hòa-Hảo, Cao-Ðài… cũng đều có đại diện, và đông đảo nhất là giới sỹ phu Thăng long Bắc hà, cùng nhiều trí thức, văn nghệ sỹ như bác sỹ Nguyễn-Ðan Quế, các cụ Hoàng Minh Chính, Hoàng Tiến, Nguyễn Thanh Giang, Hà-Sỹ Phu, v.v…, giới trí thức trẻ như bác sỹ Phạm-Hồng Sơn, luật sư Lê-Chí quang, nhà giáo Nguyễn Khắc Toàn, nhà báo Nguyễn-Vũ Bình, nhà văn Phương-Nam cũng đã lên tiếng vận động Dân chủ Ða nguyên cho Việt-nam.

Về phía chính quyền hình như họ cũng đang chuẩn bị tinh thần cho dân chúng về vấn đề quan trọng này, nên vừa qua, trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, đồng loạt các báo, đài, truyền thanh, truyền hình trên cả nước đều nhất tề thông tin, bình luận một cách rôm rả bất ngờ. Khiến cho không khí cả nước nóng lên, tinh thần dân chúng cũng rộn rã, hồi hộp, hăng hái theo sự bình luận hằng ngày, hằng giờ của các phóng viên, phát thanh viên các báo, đài trên cả nước. Dân chúng, người ủng hộ phe này, người ủng hộ phe kia, cùng trông đợi kết quả rất là nhộn nhịp. Ai ai cũng đều mong ước Việt-nam mình nhanh chóng có bầu cử tự do, đa đảng như thế . Sự hòa nhập, phổ biến, bình luận, thông tin cuộc bầu cử ở Hoa-kỳ một cách rầm rộ vừa qua, chắc chắn không phải chỉ là chuyện cho dân giải trí bình thường, vì vấn đề đa nguyên, đa đảng là vấn đề nhạy cảm của chính quyền Việt-nam hiện nay.

Cuối cùng, dù là tả khuynh, hay hữu khuynh, dù tốt, dù xấu, ai ai cũng đều là người Việt-nam, chúng ta đương nhiên phải chấp nhận tất cả, không thể khinh suất bỏ đi đâu được. Cho nên, chớ kỳ thị khuynh tả, khuynh hữu, trung dung, trong nước, ngoài nước, người già, người trẻ, chớ phân biệt tôn giáo, đảng phái, sắc tộc, tất cả đã là người Việt-nam, đều phải có trách nhiệm, với đất nước, với dân tộc Việt-nam. Mọi quyền lợi, trách nhiệm đều là của chung, không phải của riêng ai cả. Tất cả mọi người, hãy đoàn kết lại, hãy mạnh dạn cùng nhau sửa chữa những sai lầm trong quá khứ, hãy biết hy sinh những quyền lợi riêng tư của cá nhân, của đảng phái, để chung sức chung lòng, theo lời kêu gọi của Hòa-Thượng Thích Quảng-Ðộ, mà cũng là ước vọng chung của cả dân tộc. Hãy cùng nhau bắt tay xây dựng lại đất nước cho phú cường, để sánh vai với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

Sài-gòn, Xuân Ất Dậu.
Thích Viên Ðịnh


Top of the page

ÐẨY LÙI SỢ HÃI

Ðầu năm Ất Dậu đã có một biến cố mới, một biến cố khiến cho Việt Cộng lúng túng, lo sợ và cho đến hôm nay, chúng vẫn chưa có một phản ứng thích đáng nào. Ðó là lời kêu gọi đa nguyên, đa đảng của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ, Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Lời kêu gọi này lập tức được phổ biến rộng rãi khắp nơi trên thế giới, do đó, nó có một tầm ảnh hưởng lớn lao. Các nhà bình luận thời cuộc, các cơ quan truyền thông, các vị lãnh đạo tinh thần cũng như những ai quan tâm đến thời cuộc Việt Nam và tình trạng tôn giáo hiện nay tại Quê Nhà, đã phát biểu ý kiến rất nhiều, và dĩ nhiên, tất cả đều đồng thuận với ý kiến của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ, nhất là các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ ở trong nước.

Lần đầu tiên, một vị lãnh đạo tinh thần đã mạnh mẽ đề cập đến vấn đề chính trị một cách thẳng thắn, trực tiếp, không mặc cảm, không tránh né. Từ trước đến nay, Cộng Sản Việt Nam đã dùng 2 chữ chính trị như một vũ khí vạn năng hữu hiệu để chống lại tất cả những ai đề cập đến tự do dân chủ, nhất là những vị lãnh đạo tôn giáo. Chúng vu vạ cho họ “có ý đồ lật đổ Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, hay “lợi dụng dân chủ”, “âm mưu phá hoại đoàn kết quốc gia” để rồi vin vào các “tội danh” này, Việt Cộng tha hồ đàn áp, bóp nghẹt tất cả tiếng nói tự do dân chủ ở trong nước.

Lời kêu gọi của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ đã can đảm đặt thẳng vấn đề LÀM CHÍNH TRỊ. Ngài khẳng định “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và trong cương vị Tăng sĩ, chúng tôi không làm chính trị, nhưng chúng tôi phải có thái độ chính trị. Con bài tẩy của Cộng Sản Việt Nam đã bị lật ngửa, con ngáo ộp “làm chính trị” mà Cộng Sản thường dùng để hăm dọa giới lãnh đạo tôn giáo đã bị đánh gục. Vì có một thái độ chính trị là cần thiết, là một bổn phận của tăng sĩ, vì “Thái độ này thể hiện giáo lý nền tảng của đạo Phật, là cứu chúng sanh khỏi mọi nạn ách, khổ đau để tạo điều kiện giác ngộ”. Ba mươi năm qua, các vị lãnh đạo tôn giáo vì sợ con ma “làm chính trị” mà đã không có đủ can đảm nói lên tiếng nói công đạo của đấng bậc mình, nói lên những gì mà giáo lý mình buộc phải nói, phải làm. Các ngài đã bỏ mặc xã hội ngày càng tồi tệ, sa đọa, bỏ mặt tín đồ của mình hứng chịu hậu quả này đến hậu quả khác tàn độc của tham nhũng, buôn bán người, mại dâm, bóc lột v.v… Các ngài sợ “thực thi Phật pháp” hay “thực hiện giáo lý Thiên Chúa” sẽ bị ghép vào tội LÀM CHÍNH TRỊ. Bây giờ, Hòa Thượng Quảng Ðộ đã xác định khi nói lên tiếng nói cần nói của một tăng sĩ, một tu sĩ không làm chính trị, mà đó chỉ là thái độ chính trị, nếu Cộng Sản cho thái độ chính trị là một hành động phạm pháp thì cứ việc kết tội, đàn áp.

Tại sao Hòa Thượng Quảng Ðộ cho rằng có thái độ chính trị là “thể hiện giáo lý nền tảng của đạo Phật” ? Vì đó là điều kiện để cứu chúng sanh khỏi mọi nạn ách, khổ đau để tạo điều kiện giác ngộ. Nói ngược lại, những ai vì sợ hãi, vì sợ con ngáo ộp “làm chính trị” của Cộng Sản mà không tỏ thái độ chính trị của mình trước những bất công, những độc tài toàn trị của Cộng Sản hay của bất cứ một thế lực chính trị nào thì không phải là những người có trách nhiệm lãnh đạo tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng. Ðạo Công Giáo cũng vậy, mỗi Kitô Hữu đều được dạy rằng bổn phận của mình là thực thi công bình và bác ái, bài Giảng Trên Núi về Tám Mối Phúc Thật của Ðức Giê Su dạy rằng “Phúc cho những ai bị khốn nạn vì đạo ngay, vì nước đức Chúa Trời là của họ”. Nếu muối đã lạt thì không còn là muối nữa, phải đổ ra đường cho người ta dẫm đạp lên. Sở dĩ lâu này các vị lãnh đạo tinh thần và tôn giáo không có can đảm thực thi giáo lý của mình vì sợ Việt Cộng gán ghép vào tội làm chính trị, nay Hòa Thượng Quảng Ðộ đã trực diện với vấn đề này, đẩy lùi sự sợ hãi để thực thi Phật Pháp, dù phải tỏ thái độ chính trị. Phát biểu ý kiến về chính trị chưa đủ, phải “ủng hộ mọi nỗ lực chính trị nhằm bảo vệ đất nước, bảo vệ truyền thống văn minh nòi giống, âu lo cho mỗi con người được sống đời ấm no, tự do”. Tiếp theo, ngài Quảng Ðộ chứng minh rằng Việt Cộng không làm những nghĩa vụ trên, trong khi trả lời cuộc phỏng vấn của cô Ỷ Lan, Hòa Thượng Quảng Ðộ xác nhận “Ðảng Cộng Sản không nghĩ đến dân tộc nữa, máu người dân Việt Nam đã đổ ra ngoài biển qua vụ 9 ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắn chết”. Thái độ chính trị này đi thêm một bước nữa, đó là Cộng Sản nên “ý thức nhường sân khấu cho những thế hệ khác, đừng để nước lật thuyền”.

Qua lời kêu gọi của Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, các vị lãnh đạo tôn giáo ở trong nước cũng nên tỏ thái độ chính trị của mình, can đảm nói lên tiếng nói trung thực của lý trí, của giáo lý mình. Ðã đến lúc các vị phải tỏ thái độ chính trị, vì Cộng Sản chẳng những không còn nghĩ đến dân tộc, mà chúng còn phản bội lại dân tộc. Im lặng là đồng lõa. Hòa Thượng Quảng Ðộ đã đẩy lùi, đã chiến thắng sự sợ hãi, các vị lãnh đạo tôn giáo cũng nên tự đẩy lùi sợ hãi để làm những gì cần làm để thực thi đạo pháp, thể hiện giáo lý của mình. Và dĩ nhiên, cũng như Cộng Sản, một khi quý vị không có can đảm thực thi những gì Ðấng bậc mình đòi hỏi, quý vị cũng nên “ý thức việc nhường sân khấu cho thế hệ khác”. Lời thật mất lòng, nhưng đã đến lúc cấp bách, cả thế giới đang có cao trào “toàn cầu hóa kinh tế, toàn cầu hóa dân chủ”. Nếu chúng ta do dự sẽ bị bỏ lại đằng sau. Ðã đến lúc giới nhân sĩ, trí thức cũng như toàn dân cùng lên tiếng đòi tự do dân chủ mà cách thực hiện tốt nhất là chế độ đa nguyên đa đảng, vì “kẻ sĩ phu theo thời mà thông biến. Lịch sử nước ta trải dài nhiều nghìn năm cho thấy sĩ phu là giới hiểu thời vụ, nhờ hiểu thời vụ mà ra tay chuyển hóa thời đại làm cho quê hương thoát cơn luân hiểm, sinh dân được an lạc”.

Câu hỏi tại sao phải dẹp bỏ độc tài toàn trị, độc đảng đã được Hòa Thượng Quảng Ðộ giải đáp rất rõ ràng, rất đơn giản : “nhiều ý kiến vẫn hơn một ý kiến độc tôn, nhiều thành phần chính kiến, tôn giáo, xã hội, đồng tâm hiệp lực xây dựng quê hương, vẫn hơn một đảng phái độc quyền bao cấp quản lý”. Những việc làm tồi tệ của Việt Cộng, những chủ trương đưa đất nước đến chỗ diệt vong xảy ra hằng ngày chung quanh mọi người, ai ai cũng biết. Ai ai cũng muốn chế độ Cộng Sản tàn lụi đi như các nước Ðông Âu đã làm, chỉ thiếu một điều kiện : can đảm đứng lên đòi hỏi Cộng Sản. Hòa Thượng đã làm gương, đẩy lùi sợ hãi và mạnh dạn đứng lên đòi hỏi Cộng Sản thực thi đa nguyên đa đảng, tất cả mọi giới trong nước từ sĩ phu, trí thức cho đến giới bình dân, tất cả hãy can đảm, noi gương dân chúng Ðông Âu tập họp nhau lại để Việt Cộng thấy rõ một điều : “nước có thể nâng thuyền mà nước cũng có thể lật thuyền”.

Phần 2 của lời kêu gọi, Hòa Thượng Quảng Ðộ tha thiết kêu mời các nhân sĩ, các nhà trí thức, các văn nghệ sĩ và đồng bào hãy can đảm đứng lên kêu gọi Cộng Sản thực thi dân chủ đa nguyên, đa đảng. Hòa Thượng Quảng Ðộ cũng “đề nghị Nhà Nước Việt Nam không nên sợ hãi” khi thực thi đa nguyên, đa đảng. Nhưng như đã nói trên, Hòa Thượng cũng cảnh cáo Việt Cộng đừng để dân chúng lật đổ. Con đường duy nhất mà Việt Cộng có thể tự cứu mình, cứu đất nước và dân tộc là làm một cuộc “tự đảo chánh mình”. Và để giúp cho Việt Cộng có cơ hội thực hiện điều này, các giới tăng sĩ, quý vị lãnh đạo tôn giáo, các nhân sĩ, trí thức cũng như văn nghệ sĩ hãy can đảm nói lên tiếng nói tự do dân chủ của mình. Ðừng sợ ! Thời cơ đã đến, cả toàn cầu đều ủng hộ những ai đấu tranh cho tự do dân chủ. Trong diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2, Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush đã khẳng định sẽ đứng về phía dân chúng một khi họ đứng lên đòi tự do dân chủ. Afghanistan, Ukraine, Palestine, Georgia, nhất là người dân Iraq đã sẵn sàng đổ máu để đi bầu cử, lá phiếu của họ đã đưa đất nước họ đến tự do dân chủ. Ðiều kiện duy nhất và quan trọng nhất đó là can đảm. Phải đẩy lùi sợ hãi để thực hiện sứ mệnh cao cả của con người, nhất là con người của các vị lãnh đạo tôn giáo, con người được mang danh là trí thức, là sĩ phu.

Lê Văn Ấn
(Tiếng Dân, Số 144, ngày 12.3.2005)


Top of the page

CÁI GÌ KHÔNG CÒN NỮA ?

Phát ngôn viên của nhà nước cộng sản Việt Nam vừa tuyên bố Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không còn nữa. Dù đã quen với ngôn ngữ của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, người ta không khỏi ngạc nhiên về lời tuyên bố vừa thô bạo vừa ngây ngô này.

Xóa bỏ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là điều mà đảng cộng sản không có quyền làm và dù hung bạo đến đâu cũng không làm nổi.

Phật giáo đã là người đồng hành của dân tộc Việt Nam qua suốt dòng lịch sử, theo từng bước thăng trầm. Nó ở trong mọi người Việt Nam dù theo tôn giáo nào hay không có tôn giáo. Nó là di sản văn hóa và lịch sử, là yếu tố cấu tạo của đất nước và con người Việt Nam. Ðụng đến Phật giáo là xúc phạm lớn đến mọi người Việt Nam. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tuy không phải là tất cả Phật giáo – có nhiều hệ phái Phật giáo khác – nhưng từ một nửa thế kỷ nay, và nhất là từ 30 năm nay, là người đại diện chân chính nhất và được kính trọng nhất của Phật giáo Việt Nam vì lý do hiển nhiên : nó là giáo hội Phật giáo duy nhất không cúi đầu trước bạo lực. Sự kiện này chính nhà cầm quyền cộng sản cũng không thể chối cãi, bằng cớ là cách đây không lâu hòa thượng Huyền Quang, tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, còn được thủ tướng Phan Văn Khải tiếp đón một cách long trọng trong một cố gắng chiêu dụ bất thành.

Không ai không biết đảng cộng sản muốn bức tử Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vì không khống chế được giáo hội này. Ðây là một chủ mưu vừa thô bạo vừa mù quáng, có hại ngay cho chính chế độ cộng sản. Tại sao lại cần kiểm soát Phật giáo ? Phật giáo về bản chất không là một đe dọa cho một chính quyền nào cả, bách hại Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chỉ một lần nữa tố giác sự sợ sệt điên loạn của một chế độ bệnh hoạn nhìn đâu cũng thấy mối nguy, phải trói chặt xã hội dân sự mới yên tâm.

Hy vọng của đảng cộng sản là sau khi hai hòa thượng Huyền Quang và Quảng Ðộ không còn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sẽ không thể tồn tại. Họ lầm to. Phật giáo trước hết là một tình cảm, và tồn tại với tình cảm này. Lời kêu gọi dân chủ trầm thống của hòa thượng Quảng Ðộ trong Thư chúc Xuân Ất Dậu đã làm cho tình cảm này mạnh hơn, cao hơn, đẹp hơn. Quảng Ðộ sẽ mãi mãi hiện diện trong trái tim mọi người Việt Nam. Sự kính mến mà người Việt Nam dành cho ông sẽ khiến giáo hội mà ông đại diện còn mãi trong lòng người Việt Nam.

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn còn và sẽ còn bởi vì nó là một giáo hội đúng nghĩa và được lòng người. Cái không còn là chính nhà nước cộng sản. Thiên chức của một nhà nước là bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ an ninh cho người dân, bảo đảm luật pháp và công lý. Dâng đất và biển cho Trung Quốc, khúm núm khi Trung Quốc xấc xược tàn sát dân mình, dung túng bọn lưu manh và bách hại những người có nhân cách, chính quyền cộng sản không phải là một chính quyền đúng nghĩa. Nó không còn nữa. Chỉ còn lại một đảng cướp.

Thông Luận
(Xã luận – Thông Luận số 190)


Top of the page

ÔNG NGUYÊN KHÔI, ÐÀI PHÁT THANH QUÊ HƯƠNG Ở BẮC CALIFORNIA PHỎNG VẤN LINH MỤC PHAN VĂN LỢI

Dưới đây là trích đoạn một số phát biểu từ Huế của Lịch mục Phan Văn Lợi bình luận Lời kêu gọi cho Dân chủ đa nguyên của Hòa thượng Thích Quảng Ðộ khi trả lời phỏng vấn ký giả Nguyên Khôi trên Ðài Quê hương trong chương trình phát về Việt Nam :

“Tôi đã có hân hạnh được nghe chính bức thư của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ trước, rồi những cuộc phỏng vấn sau đó thực hiện với Hòa Thượng, chẳng hạn như là do phóng viên Ỷ Lan, vì thế cũng thấy được thêm rất nhiều điều về tâm tư, tình cảm của ngài Hòa Thượng.

“Xin thưa trước hết là tôi xin khẳng định ngay là tôi hoàn toàn nhất trí, hoàn toàn đồng thuận với lời chúc Xuân của ngài Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ. Tôi tán thành bức thư và lời kêu gọi đó 100%. Về lời kêu gọi nầy lồng trong một lời chúc Xuân thì tôi xin có 2 ý kiến. Ý kiến thứ nhất là về thái độ của Hòa Thượng, và ý kiến thứ hai là nội dung của lời kêu gọi.

“Về thái độ của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ thì tôi xin bày tỏ sự CẢM PHỤC CỦA TÔI về sự can đảm của Hòa Thượng, về ý chí sáng suốt và về ý thức trách nhiệm của Hòa Thượng. Sự can đảm là cho dù đã trải qua bao nhiêu năm tháng ngục tù quản chế, và hiện cũng đang nằm trong tình trạng quản chế, nhưng mà Hòa Thượng vẫn không ngừng lên tiếng, lên tiếng không mỏi mệt cho tự do tôn giáo và tự do dân chủ tại quê nhà, dù biết rằng bao nhiêu nguy hiểm có thể rình chực mình. Ðó là sự can đảm đáng làm gương cho mọi người. Tôi cảm phục ý chí sáng suốt của Hòa Thượng. Hòa Thượng đã nhận rõ tình thế và truy nguyên được tất cả mọi tệ nạn xã hội tại Việt Nam. Hòa Thượng đã cho thấy rằng tất cả sự tụt hậu về kinh tế, suy đồi về đạo đức, xuống cấp về giáo dục và về mọi mặt, không phải là hậu quả của chiến tranh, không phải là do quản lý chưa được chặt chẽ, do những thế lực ngoại thù và nội thù, hay là do chưa có đường lối đúng đắn như các nhà lãnh đạo Cộng Sản thường đưa ra để trốn tránh trách nhiệm. Hòa Thượng thấy rằng tất cả cái tệ hại trong xã hội Việt Nam bây giờ chỉ phát xuất từ một chỗ mà thôi, đó là sự độc đảng, độc tài toàn trị mà đảng Cộng Sản Việt Nam đang thực thi, đang tự cho mình là người có quyền quyết định vận mệnh của dân tộc, đưa ra mọi đường lối và bắt tất cả phải theo dù rằng những hậu quả trước mắt cho thấy đã hoàn toàn sai lầm và tai hại. Chúng tôi cũng rất cảm phục ý thức trách nhiệm của Hòa Thượng. Ngài thật là một vị lãnh đạo tinh thần rất xứng đáng, Ngài đã nói rằng các vị tu sĩ không làm chính trị, nhưng phải có lập trường chính trị. Ðiều đó chúng tôi hoàn toàn đồng ý. Các tu sĩ Phật Giáo, Công Giáo hay của mọi tôn giáo khác dù không tham gia vào chính trường nhưng mà cũng phải có một thái độ chính trị, phải thực thi chức năng là làm công việc giáo hóa cho mọi người, nhất là phải giáo hóa cho những nhà cầm quyền. Bởi vì tự bản chất, các tôn giáo là nhà giáo dục của quần chúng, là lương tâm của xã hội. Hòa Thượng đã thử nghiệm truyền thống, nối tiếp truyền thống của bao nhiêu vị quốc sư Phật Giáo rất là thời danh trong lịch sử Việt Nam để mà góp tiếng xây dựng cho đất nước, dân tộc qua chuyện đưa ý kiến với nhà cầm quyền, nhất là nhà cầm quyền Cộng Sản hiện nay.

“Về ý kiến thứ 2 là nội dung lời kêu gọi của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ. Về lời kêu gọi này ta thấy có 3 điểm. Ðó là lời kêu gọi rất đúng lúc. Thứ 2, lời kêu gọi rất hợp lòng người, thuận lòng trời. Và thứ 3 là lời kêu gọi mang đầy tính nhân đạo, nhân bản. Lời kêu gọi đó đúng lúc là bởi vì đất nước lúc nầy hơn bao giờ hết cần có dân chủ đa nguyên, đa đảng để có thể hội nhập vào cộng đồng thế giới, để có thể đi vào trào lưu dân chủ tiến bộ của khắp hoàn vũ, để có thể tham gia những tổ chức quốc tế như là Tổ chức Thương mại quốc tế chẳng hạn như vậy. Chính vì thấy thái độ, lập trường độc đảng, chính sách độc tài đã làm cho đất nước ra tụt hậu. Vì vậy mà lời kêu gọi của Hòa Thượng rất đúng lúc.

Lời kêu gọi đó rất hợp lòng người và thuận lòng trời, bởi vì nhân dân Việt Nam đã quá chán ngán, đã quá phẫn nộ khi thấy tình trạng đất nước bây giờ, đặc biệt sau 30 năm mà đảng Cộng Sản không làm được một cái gì gọi là tiến bộ ích lợi thực sự về mặt tinh thần, về mặt kinh tế, về mặt giáo dục cho đất nước Việt Nam. Mọi sự như lời Hòa Thượng nói trong lời kêu gọi của Ngài đều đi xuống dốc, biến nước Việt Nam chúng ta đang ở trong một thời kỳ đen tối và sa sút nhất trong lịch sử của dân tộc. Vì vậy mà toàn dân đều mong muốn phải có một sự thay đổi tận căn, phải dẹp bỏ chế độ độc tài toàn trị nầy. Tất cả mọi người đều mong muốn như vậy, mặc dù số người lên tiếng không phải là nhiều nhưng chắc chắn đó là lòng trời và lòng người đều cùng chung một nhịp là mong muốn đất nước phải có dân chủ đa nguyên, đa đảng.

“Lời kêu gọi đó mang một đặc tính thứ 3 là mang tính nhân đạo. Hòa Thuợng đã lấy từ tâm của một vị chân tu để mời gọi người Cộng Sản, chính quyền Cộng Sản phải làm theo đạo lý trường cửu của dân tộc là nước nâng thuyền chứ đừng để nước lật thuyền. Nước tức là dân. Phải để cho dân ủng hộ mình, để cho dân thực sự tin vào mình. Và muốn như vậy thì chỉ có thể xảy ra trong một cuộc bầu cử tự do đa đảng. Muốn cho dân tín nhiệm thì người dân phải có tự do để chọn lựa những người tài đức, những đảng nào có đường lối đứng đắn. Hòa Thượng không muốn đất nước chúng ta có những cuộc đảo chính đổ máu. Hòa Thượng nói với người Cộng Sản rằng, “đừng tuởng có công an cho nhiều, súng ống cho nhiều, nhà tù cho nhiều thì sẽ giữ được đất nước”. Ðó là hoàn toàn sai lầm, chỉ có một điều giữ được đất nước và làm cho đất nước tiến lên là lòng dân mà thôi. Phải có một thế trận nhưng thế trận đây không phải là thế trận của công an, của quân đội, của Mặt trận luôn bao vây người ta, nhưng mà thế trận lòng dân, phải làm cho lòng dân thật sự yêu mến nhà cầm quyền.

Cho nên đó là lời kêu gọi mà Hòa Thượng đã nói lên cái gì mà tất cả chúng ta đều ao ước. Và cuối cùng, tôi thấy ngài Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ thật là một tấm gương cho tất cả mọi nhà lãnh đạo tinh thần, nhất là các nhà lãnh đạo tinh thần tại Việt Nam. Lãnh đạo tinh thần chính là hướng dẫn cái tâm tư, tình cảm của người dân đi theo lẽ phải, nói lên sự thật, đòi hỏi công lý bằng tiếng nói can đảm của mình, thái độ bất khuất của mình. Hòa Thuợng Thích Quảng Ðộ thật sự là một tấm gương mà đáng cho tất cả mọi vị lãnh đạo tinh thần phải noi theo. Tôi cũng nguyện noi theo tấm gương của Hòa Thợng Thích Quảng Ðộ, và nhân đây, qua đài phát thanh Quê Hương tôi xin được bày tỏ lòng cám ơn sâu sắc, sự kính phục của tôi đối với Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ. Cũng nhân dịp này nữa, tôi cũng hòan toàn đồng ý với cụ Hoàng Minh Chính trong bài trả lời phỏng vấn của phóng viên Ỷ Lan, chúng tôi cũng rất cảm phục giọng nói mạnh mẽ, hăng hái, dù cụ đã 85 tuổi, một tinh thần cương nghị rất là MINH, rất là CHÍNH. Tôi mong rằng tiếng nói của tất cả các nhà dân chủ và những nhà lãnh đạo tinh thần trong nước Việt Nam cũng như ở ngoài sẽ phối hợp nhau lại để làm cho lời kêu gọi dân chủ của Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ mau được thành công, mau được thành tựu”.



Unicode


VNI


VPS


VIQR

Check Also

Bài 1: Cơ sở Quê Mẹ và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế trả lời chung về âm mưu phá hoại cuộc đấu tranh cho Nhân quyền và Tự do Tôn giáo của hai Dư Luận viên Thục Vũ — Ý Dân

  PARIS, ngày 9 tháng Giêng năm 2019 (PTTPGQT & VCHR) — Thời gian qua, …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *